|
Dựa
vào các nghiên cứu sâu rộng của ông, Giáo Sư Tighe cho rằng ngày 25
tháng Mười Hai “hoàn toàn phát xuất từ các cố gắng của các Kitô hữu La
Tinh tiên khởi nhằm xác định ngày qua đời theo lịch sử của Chúa Giêsu”.
Ông còn cho rằng việc Hoàng Đế Aurelian năm 247 lập ngày 25 tháng Mười
Hai làm ngày mừng “việc hạ sinh của Mặt Trời Vạn Thắng… chắc chắn là một
mưu toan tạo ra một ngày của người ngoại giáo nhằm thay thế cho ngày lễ
lúc ấy đã trở thành quan trọng đối với các Kitô hữu Rôma”.
Tính ngày Lễ Giáng Sinh
Theo
Giáo Sư Tighe, ý niệm cho rằng Ngày Lễ Giang Sinh bắt nguồn từ Ngày Mặt
Trời của người ngoại giáo là ý niệm của hai học giả cuối thế kỷ 17 và
đầu thế kỷ 18. Paul Ernst Jablonski, một người Thệ Phản Đức, muốn chứng
tỏ rằng việc mừng ngày sinh của Chúa Giêsu vào ngày 25 tháng Mươi Hai là
một trong nhiều cố gắng nhằm “ngoại giáo hóa” Kitô Giáo, một việc được
Giáo Hội vào thế kỷ thứ tư chủ trương, và là một trong nhiều “thoái hóa”
nhằm biến Kitô Giáo tông truyền tinh tuyền thành Đạo Công Giáo. Còn Dom
Jean Hardouin, một đan sĩ Biển Đức, thì cố gắng chứng minh rằng Giáo
Hội Công Giáo tiếp nhận các ngày lễ của ngoại giáo để phục vụ các mục
đích của Kitô Giáo mà không ngoại giáo hóa Tin Mừng.
Trong
lịch Julian, được sáng chế năm 45 trước Công Nguyên, dưới thời Julius
Caesar, ngày đông chí rơi vào ngày 25 tháng Mười Hai, và do đó, đối với
Jablonski và Hardouin, điều hiển nhiên là nó có ý nghĩa ngoại giáo trước
khi có ý nghĩa Kitô Giáo. Nhưng sự thực là ngày ấy không hề có ý nghĩa
tôn giáo nào trong lịch lễ lạc của người Rôma ngoại giáo trước thời
Aurelian, và việc thờ cúng mặt trời cũng không đóng một vai trò gì nổi
bật ở Rôma trước thời hoàng đế này.
Có
hai đền thờ mặt trời tại Rôma: một đền cử hành ngày cung hiến nó vào
ngày 9 tháng Tám, còn đền kia cử hành ngày cung hiến nó vào ngày 28
tháng Tám. Nhưng, đến thế kỷ thứ hai, cả hai việc cúng tế này đều đã rơi
vào quên lãng, khi các đạo thờ mặt trời của Đông Phương, như đạo thờ
thần Mithra chẳng hạn, bắt đầu được người Rôma ưa chuộng. Và dù thế nào,
không thứ đạo nào trong số này, dù cũ hay mới, có lễ lạc nào liên quan
tới các ngày Đông/Hạ Chí hay các ngày Xuân/Thu Phân.
Chuyện
xẩy ra là Hoàng Đế Aurelian, cai trị từ năm 270 cho tới ngày bị ám sát
vào năm 275, vốn thù nghịch đối với Kitô Giáo và xem ra muốn cổ vũ việc
lập ra ngày lễ “Sinh Nhật của Mặt Trời Vạn Thắng” như một phương thế hợp
nhất các việc thờ cúng ngoại giáo khác nhau trong Đế Quốc quanh việc kỷ
niệm “ngày tái sinh” hàng năm của thần Mặt Trời. Ông điều khiển một đế
quốc lúc ấy xem ra đang bắt đầu sụp đổ trước bất ổn nội bộ, phản loạn
tại các tỉnh, kinh tế xuống dốc, và những vụ tấn công liên tiếp của các
bộ lạc Đức ở phía Bắc và của Đế Quốc Ba Tư ở phía Đông.
Tạo
ra một ngày lễ mới, ông cố ý dùng sự khởi đầu của việc kéo dài hơn ánh
sáng ban ngày và rút ngắn hơn bóng đêm vào ngày 25 tháng Mười Hai làm
một biểu tượng cho việc “tái sinh” hay trẻ trung hóa mãi mãi Đế Quốc
Rôma, phát sinh từ việc duy trì thờ cúng các thần minh mà sự phù trì của
các vị đã đem lại cho Rôma sự vĩ đại và thống trị thế giới của nó. Nếu
có thể kết nạp ngày lễ của Kitô Giáo thì càng tốt.
Một phó sản
Quả
thực, chứng cớ thứ nhất cho thấy việc các Kitô hữu cử hành ngày 25
tháng Mười Hai như ngày sinh của Chúa Giêsu phát sinh từ Rôma, ít năm
sau khi Aurelian, tức năm 336 công nguyên, nhưng có chứng cớ từ cả Đông
Phương nói tiếng Hy Lạp lẫn Tây Phương nói tiếng La Tinh cho thấy các
Kitô hữu đã tính toán ngày sinh của Chúa Giêsu trước khi họ cử hành ngày
này trong phụng vụ, có khi từ các thế kỷ thứ hai và thứ ba. Thực vậy,
chứng cớ này cho ta biết việc nhận ngày 25 tháng Mười Hai chỉ là phó sản
của việc xác định ngày Chúa Giêsu chết và sống lại.
Việc
trên xẩy ra thế nào? Có một sự mâu thuẫn biểu kiến giữa ngày Chúa Giêsu
qua đời trong các Tin Mừng Nhất Lãm và Tin Mừng Thánh Gioan. Các Tin
Mừng Nhất Lãm đặt ngày đó vào Ngày Vượt Qua (sau khi Chúa cử hành Bữa
Vượt Qua vào đêm hôm trước), còn Tin Mừng Thánh Gioan thì đặt nó vào hôm
Vọng Vượt Qua, đúng lúc chiên Vượt Qua được sát tế trong Đền Thờ
Giêrusalem để dùng cho ngày lễ, để bảo đảm nó phải diễn ra sau hoàng hôn
ngày đó.
Giải
quyết vấn nạn trên bao hàm việc trả lời câu hỏi liệu Bữa Tối Cuối Cùng
của Chúa chính là Bữa Vượt Qua, hay một bữa được cử hành một ngày trước
đó; câu hỏi này ta không bàn ở đây. Ta chỉ cần biết rằng Giáo Hội Sơ
Khai theo Thánh Gioan hơn là theo các Tin Mừng Nhất Lãm, và do đó tin
rằng cái chết của Chúa Giêsu xẩy ra ngày 14 Nisan, theo lịch mặt trăng
của Do Thái. Tiện thể cũng nên biết các học giả hiện đại đồng ý rằng cái
chết của Chúa Giêsu rất có thể chỉ xẩy ra trong các năm 30 hay 33 công
nguyên mà thôi, vì hai năm này là hai năm duy nhất thời đó khi ngày vọng
Vượt Qua rơi vào hôm thứ Sáu, có lẽ vào ngày 7 tháng Tư năm 30 hay ngày
3 tháng Tư năm 33.
Tuy
nhiên, lúc buộc phải tách ra khỏi Do Thái Giáo, Giáo Hội Sơ Khai đã
bước vào một thế giới với những thứ lịch khác hẳn, và phải tính thời
gian riêng để cử hành Ngày Chúa Chịu Nạn, chứ không còn lệ thuộc cách
tính ngày Vượt Qua của tư tế Do Thái nữa. Ngoài ra, vì lịch Do Thái là
lịch mặt trăng gồm 12 tháng, mỗi tháng 30 ngày, mỗi ít năm, một tháng
thứ 13 phải được thêm vào bằng sắc lệnh của Thượng Hội Đồng để giữ cho
lịch ăn khớp với các ngày xuân/thu phân và hạ/đông chí, cũng như tránh
cho các mùa khỏi rơi “lạc” vào các tháng không thích đáng.
Ngoài
khó khăn phải theo dõi việc định ngày Vượt Qua cho một năm nhất định
nào đó, việc các Kitô hữu theo lịch mặt trăng để tính ngày riêng của họ
cũng rất có thể đăt họ vào thế khó xử với cả người Do Thái lẫn dân
ngoại, và rất có thể gây tranh cãi nội bộ không thôi. Chứng cớ lịch sử
cho thấy trong thế kỷ thứ hai, họ vốn tranh cãi gắt gao về việc ngày
Vượt Qua có luôn phải xẩy ra vào Chúa Nhật hay vào bất cứ ngày nào trong
tuần miễn là sau ngày 14 tháng Artemision/Nisan 2 ngày.
Các
khó khăn trên đã được giải quyết cách khác nhau giữa các Kitô hữu Hy
Lạp ở phía đông và các Kitô hữu La Tinh ở phía tây Đế Quốc. Các Kitô hữu
Hy Lạp hình như muốn tìm một ngày tương đương với ngày 14 Nisan trong
lịch mặt trời của họ, và vì tháng Nisan là tháng trong đó ngày xuân phân
xẩy ra, nên họ chọn ngày 14 tháng Artemision, là tháng trong đó ngày
xuân phân luôn luôn diễn ra trong lịch của họ. Khoảng năm 300 công
nguyên, lịch Hy Lạp bị lịch Rôma thay thế và vì các ngày đầu và cuối
tháng trong hai hệ thống này không trùng nhau, nên ngày 14 Artemision đã
trở thành ngày 6 tháng Tư.
Ngược
lại, Các Kitô hữu La Tinh thế kỷ thứ hai ở Rôma và Bắc Phi hình như
muốn thiết lập ngày lịch sử trong đó Chúa Giêsu qua đời. Đến thời
Tertullianô, họ đã kết luận rằng Người qua đời vào thứ Sáu, 25 tháng Ba
năm 29.
Tuổi Toàn Diện (Integral Age)
Do
đó, ở Đông Phương, ta có ngày 6 tháng Tư, ở Tây Phương, ta có ngày 25
tháng Ba. Đến đây, thiết nghĩ nên giới thiệu một niềm tin hình như rất
phổ biến trong Do Thái Giáo thời Chúa Giêsu, nhưng, vì không được nói
tới ở bất cứ chỗ nào trong Thánh Kinh, nên đã hoàn toàn bị Kitô hữu quên
mất. Đó là ý niệm “tuổi toàn diện” của các tiên tri Do Thái vĩ đại: ý
niệm này cho rằng các tiên tri của Israel chết cùng ngày với ngày sinh
hay ngày họ được thụ thai.
Ý
niệm trên là một nhân tố chủ yếu để hiểu được tại sao một số Kitô hữu
tiên khởi lại tin rằng ngày 25 tháng Mười Hai là sinh nhật của Chúa
Giêsu. Các Kitô hữu tiên khởi đã áp dụng ý niệm trên vào Chúa Giêsu, nên
ngày 25 tháng Ba và 6 tháng Tư không những là ngày Chúa Giêsu được giả
thiết qua đời, mà còn là ngày Người được thụ thai hay được sinh ra nữa.
Cũng có một số chứng cớ thoáng qua cho thấy ít nhất một số người ở các
thế kỷ thứ nhất và thứ hai nghĩ rằng 25 tháng Ba hay 6 tháng Tư là sinh
nhật của Chúa Giêsu. Nhưng nói chung, ý kiến cho rằng ngày Người được
thụ thai là ngày 25 tháng Ba đã thắng thế.
Cho
tới nay, ngày trên vẫn được Giáo Hội hoàn vũ cử hành như là Lễ Truyền
Tin, khi Tổng Thiên Thần Gabriel đem tin vui Chúa Cứu Thế tới cho Trinh
Nữ Maria; và nhờ sự chấp nhận của Trinh Nữ mà Ngôi Lời Đời Đời của Thiên
Chúa (“ánh sáng bởi ánh sáng, Thiên Chúa thật bởi Thiên Chúa thật, được
sinh ra bởi Đức Chúa Cha từ trước muôn đời”) đã nhập thể trong cung
lòng ngài. Thai kỳ kéo dài bao lâu? Chín tháng. Cộng chín tháng này vào
25 tháng Ba, ta sẽ có ngày 25 tháng Mười Hai; cộng nó vào ngày 6 tháng
Tư, ta sẽ có ngày 6 tháng Giêng. Ngày 25 tháng Mười Hai là Lễ Giáng
Sinh, và ngày 6 tháng Giêng là Lễ Hiển Linh.
Lễ
Giáng Sinh (25 tháng Mười Hai) là lễ có nguồn gốc Kitô giáo Tây Phương.
Ở Constantinople, hình như nó đã được đưa vào năm 379 hay 380. Theo một
bài giảng của Thánh Gioan Kim Khẩu, lúc ấy là một nhà khổ tu và giảng
thuyết nổi tiếng tại quê hương Antiôkia, hình như lễ này được cử hành
tại đó ngày 25 tháng Mười Hai năm 386. Từ trung tâm này, nó được loan
truyền khắp Đông Phương Kitô Giáo, được Alexandria chấp nhận khoảng năm
432, được Giêrusalem chấp nhận một thế kỷ sau. Người Ácmêni, duy nhất
trong số các Giáo Hội Kitô Giáo cổ thời, không bao giờ chấp nhận nó và
cho tới nay vẫn cử hành ngày Chúa ra đời, việc Người hiển linh cho ba
nhà thông thái, và việc Người chịu phép rửa cùng ngày 6 tháng Giêng.
Đến
lượt mình, các Giáo Hội Tây Phương dần dần chấp nhận lễ Hiển Linh ngày 6
tháng Giêng của Đông Phương, vào khoảng giữa các năm 366 và 394. Nhưng ở
Tây Phương, lễ này thường được trình bầy như ngày tưởng niệm việc ba
nhà thông thái tới kính viếng Hài Nhi Giêsu, và trong tư cách ấy, nó là
một lễ quan trọng, nhưng không phải là một trong các ngày lễ quan trọng
nhất, khác với Đông Phương nơi người ta coi nó chỉ thua có Lễ Phục Sinh
mà thôi.
Tại
Đông Phương, Lễ Hiển Linh vượt hẳn Lễ Giáng Sinh. Lý do là: lễ này cử
hành việc Chúa Giêsu chịu phép rửa tại Sông Giócđăng và là dịp trong đó
Tiếng Chúa Cha và việc Chúa Thánh Thần hiện xuống đều đã tỏ lộ lần đầu
tiên cho con người mau chết biết thần tính của Chúa Kitô Nhập Thể và Ba
Ngôi trong Một Bản Tính Thiên Chúa.
Ngày lễ Kitô Giáo
Như
thế, ngày 25 tháng Mười Hai như ngày giáng sinh của Chúa Giêsu rõ ràng
không nợ nần bất cứ điều gì từ ảnh hưởng ngoại giáo trong thực hành của
Giáo Hội từ thời hay sau thời Constantinô. Rất có thể nó không phải là
ngày Chúa Giêsu sinh ra, nhưng nó hoàn toàn phát sinh từ các cố gắng của
các Kitô hữu La Tinh sơ khai trong việc xác định ra ngày Chúa Kitô chết
theo lịch sử.
Còn
ngày lễ ngoại giáo do Hoàng Đế Aurelian thiết lập vào ngày đó năm 274
không những là một cố gắng dùng ngày đông chí làm lợi điểm chính trị, mà
gần như cũng là một mưu toan đem ý nghĩa ngoại giáo đáng kể đến cho một
ngày đến lúc đó đã rất quan trọng đối với các tín hữu Rôma. Sau này,
đến lượt mình, nhân ngày Chúa Giêsu sinh ra, các Kitô hữu đã có thể dựa
vào “Sinh Nhật của Mặt Trời Vạn Thắng” để nhắc tới việc mọc lên “ Mặt
Trời Cứu Rỗi” hoặc “Mặt Trời Công Lý”.
Vũ Văn An