Lời giới thiệu:
Khi còn ở Việt Nam và trong thời gian sống tại Đức
Quốc, tôi đã đọc được nhiều ''Ơn Lành'' hay đúng hơn là ''Phép Lạ'' mà Chúa ban
qua Cha Trương Bửu Diệp. Các Phép Lạ nhờ Vị Thánh Sống này thì quá nhiều, kể
sao cho xiết!
Hôm nay, 02.10.2012 (đầu Tháng Mân Côi kính Đức
Mẹ), tôi nhận được bài viết của giáo sư Đoàn Dự, người Bên Lương, do anh bạn
(dân Quốc Gia Hành Chánh) gởi tặng. Bài hơi dài. Do đó, để quý Vị độc giả
''thấy trước'' phần nào nội dung ''không nên bỏ qua'', tôi xin tô đậm những chỗ
mà tôi cho là quan trọng và đưa vào phần ''giới thiệu'' lời kết của giáo sư
Đoàn Dự như sau:
"Để kết luận bài này, tôi xin thưa với quý vị
độc giả thân mến rằng tôi không phải là người Công giáo, nhưng tôi biết trong
Thánh Kinh Công giáo có câu nói của Đức Chúa Giêsu: “Phúc cho ai không thấy mà
tin.” Vậy, nay tôi xin dùng câu nói này để cầu Chúa và Cha Diệp ban ơn cho quý
vị. Amen.''
Xin cám ơn giáo sư Đoàn Dự bởi vì ''Bình an dưới
thế cho người thiện tâm.'' (Luca 2,14) và cũng xin cám ơn Anh Bạn ''Quốc Gia
Hành Chánh'' đã tặng bài hay.
Đaminh Phan văn Phước
Bài viết của giáo sư Đoàn Dự:
Chuyện Cha Bửu Diệp
Thưa quý bạn, Bạc Liêu là một tỉnh nhỏ ở vùng đồng
bằng sông Cửu Long nhưng có nhiều chuyện nổi tiếng, như về lúa gạo, về muối, về
nhãn, về... Công tử Bạc Liêu (1900-1973) trong thời Pháp thuộc, về vụ án Đồng
Nọc Nạn của những năm 1928-1930, và về ngôi nhà thờ họ Tắc Sậy với sự linh ứng
của Cha Phanxicô Xaviê Trương Bửu Diệp, mà gần đây cả trong nước lẫn ngoài nước
ai cũng biết.
Tôi không phải là người Công giáo, hơn nữa lại là
một giáo viên (ngày trước gọi là giáo sư trung học) có đầu óc khoa học và ưa
chuộng thực tế hơn là những sự tin tưởng mang tính siêu hình. Tôi đã từng dạy
học tại Bạc Liêu suốt 6 năm trời (1965-1971) và học trò của tôi tại các huyện
Vĩnh Lợi, Vĩnh Châu, Phước Long, Giá Rai v.v... đông lắm, chúng tôi thường
xuống dưới đó chơi. Tôi rất quen thuộc với cái huyện (ngày trước gọi là quận)
Giá Rai có ngôi nhà thờ nhỏ tí Tắc Sậy lợp tôn, nằm bên cạnh lộ sau khi đi qua
ngôi chợ cũng nhỏ như vậy của thị trấn Hộ Phòng - thị trấn của huyện Giá Rai -
khoảng một cây số.
Bây giờ, trong thời buổi CS này, nhà thờ Tắc Sậy tự
nhiên nổi tiếng do sự linh thiêng “ai đến khấn nguyện điều gì đều được” của Cha
Diệp. Có điều tôi muốn thưa với quý bạn rằng Nhà thờ Tắc Sậy huyện Giá Rai
thuộc tình Bạc Liêu chứ không phải thuộc tỉnh Cà Mau. Tất cả các tài liệu đều
ghi Bạc Liêu nhưng dân chúng thường nói Ca Mau bởi vì sau năm 1975, khi Cha Trương
Bửu Diệp bắt đầu nổi tiếng thì Bạc Liêu thuộc về Cà Mau, kết hợp với tỉnh Cà
Mau thành tỉnh Minh Hải, người ta quen gọi là Cà Mau chứ ít khi gọi là Minh
Hải. Ngoài ra, Nhà thờ Tắc Sậy nằm trên đường Bạc Liêu đi Cà Mau, cách Bạc Liêu
37 cây số trong khi chỉ cách Cà Mau có 20 cây số nên mọi người dễ bị lầm.
Quý bạn hỏi vậy thì đối với những chuyện đồn đại,
bản thân Đoàn Dự tin hay không tin? Tôi xin trả lời rằng tôi không dám nói tin
hay không tin, nhưng theo tôi nghĩ, Nhà thờ Tắc Sậy là một ngôi nhà thờ rất nhỏ
- nhỏ không thể nào nhỏ hơn được nữa - lại nằm trong một thị trấn cũng nhỏ,
đồng không mông quạnh, ở phần gần như cuối cùng đất nước, cách Sài Gòn tới hơn
300 cây số, vậy mà nay được xây dựng thành một cơ ngơi to lớn, hiện đại, nguyên
tiền xây cất đã hơn 59 tỉ đồng, tức gần 3 triệu đô-la, ấy là chưa kể các pho
tượng 12 vị thánh tông đồ lớn gấp 2 hay 3 lần người thật, toàn bằng gõ đỏ tức
loại gỗ quý hiện nay không còn có ở Việt Nam (nhưng còn có ở Campuchia và Lào)
mà theo tôi biết, giá mỗi pho tới vài trăm triệu đồng, vậy thì tiền “nội thất”
cũng tới hàng triệu đô-la. Toàn là do khách thập phương, lương cũng như giáo,
nhất là Việt Kiều tại các nước gửi tới tạ ơn cả. Phải có cái gì đó thiêng liêng
và đầy tin tưởng người ta mới dâng hiến lên Cha như thế! Mặt khác tôi cũng
nghĩ, khi bị bắt cùng với 70 người vừa chức sắc vừa giáo dân trong họ đạo, Linh
mục Phanxicô Trương Bửu Diệp đã hy sinh tính mạng của mình để cứu họ. Sau khi
qua đời, ngài hiển linh ban ơn cho người này người kia, “ai xin thì cũng đều được”.
Rồi bây giờ mọi người dâng lễ tạ ơn ngài, biến ngôi nhà thờ nhỏ xíu của ngài
thành nơi khang trang, hiện đại. Tất cả những việc đó đều là tình người. Đối
với tôi, bất cứ cái gì thuộc về tình người đều đáng ca ngợi.
Quý bạn cũng hỏi những chuyện về Cha Diệp thì ai
cũng biết, tại sao tôi còn thuật lại? Xin thưa, tính tôi vẫn thế, không kể thì
thôi, đã kể là rất chi tiết. Tôi sợ quý bạn tuy biết nhưng biết từng mảng,
không thành hệ thống. Bây giờ tôi xin tường thuật từ đầu đến cuối thật rõ để
quý bạn hiểu, xin mời quý bạn xem xét...
* * *
Tiểu sử Linh mục Trương Bửu Diệp
Cha Phanxicô Trương Bửu Diệp sinh ngày 01-01-1897,
một tháng sau được Cha Giuse Sớm rửa tội ngày 02-02-1897 tại họ đạo Cồn Phước,
nay thuộc ấp Mỹ Lợi, xã Mỹ Luông, huyện Chợ Mới, tỉnh An Giang.
Cha ngài là Micae Trương Văn Đặng. Mẹ ngài là Lucia
Lê Thị Thanh. Gia đình sinh sống tại họ đạo Cồn Phước tỉnh An Giang.
Năm 1904, lúc ngài 7 tuổi thì mẹ mất. Cha ngài dời
gia đình lên Battambang bên Campuchia, sinh sống bằng nghề thợ mộc. Tại đây, thân
phụ ngài tục huyền với bà Maria Nguyễn thị Phước, sinh năm 1890, quê gốc tại Mỹ
Luông, Chợ Mới, An Giang. Kế mẫu đã sinh cho ngài người em gái tên là Trương
thị Thìn (1913), hiện còn sống tại họ đạo Bến Dinh, xã Tân Hòa, huyện Thanh
Bình, tỉnh Đồng Tháp.
Năm 1909, cha Phêrô Lê Huỳnh Tiền gửi ngài vào Tiểu
chủng viện Cù lao Giêng, xã Tấn Mỹ, Chợ Mới tỉnh An Giang. Học xong tại Tiểu
chủng viện, ngài lên Đại chủng viện Nam Vang, Campuchia, (lúc đó các họ đạo An
Giang, Châu Đốc, Hà Tiên trực thuộc giáo phận Pnom Penh, Campuchia).
Năm 1924, sau thời gian tu học, ngài được thụ phong
linh mục tại Nam Vang dưới thời Đức Cha Chabalier người Pháp. Lễ vinh quy và mở
tay được tổ chức tại nhà người cô ruột là bà Sáu Nhiều, tại họ đạo Cồn Phước.
Từ năm 1924-1927, ngài được bề trên bổ nhiệm làm
Cha phó họ đạo Hố Trư, một họ đạo của người Việt sinh sống tại tỉnh Kandal,
Campuchia. Từ năm 1927-1929, ngài về làm giáo sư tại Tiểu chủng viện Cù lao
Giêng tỉnh An Giang.
Tháng 03 năm 1930, ngài về trông nom họ đạo Tắc
Sậy, quận Giá Rai, tỉnh Bạc Liêu. Trong những năm làm cha sở, ngài quan hệ,
giúp đỡ, thành lập nhiều họ đạo khác tại các vùng phụ cận như: Bà Đốc, Cam Bô,
An Hải, Đầu Sấu, Chủ Chí, Khúc Tréo, Đồng Gò, Rạch Rắn.
Hoàn cảnh xã hội nhiễu nhương những năm 1945-1946,
chiến tranh loạn lạc, bà con nhân dân di tản, Cha Bề Trên địa phận Bạc Liêu là
Phêrô Trần Minh Ký và cả các cha người Pháp cũng khuyên ngài lên Bạc Liêu lánh
mặt, khi nào tình hình yên ổn thì sẽ trở lại họ đạo Tắc Sậy, nhưng ngài trả
lời: “Tôi sống giữa đàn chiên và nếu có chết cũng chết giữa đàn chiên, không đi
đâu cả.”
Ngày 12-03-1946, ngài bị bắt cùng với trên 70 chức
sắc và giáo dân tại họ đạo Tắc Sậy, bị lùa đi và nhốt tại lẫm lúa nhà ông giáo
Sự ở Cây Dừa. Người ta định giết tất cả, nhưng ngài nói chính ngài là chủ chăn
các con chiên đó? , vậy xin chết thay cho các con chiên của ngài. Họ chấp nhận.
Mọi người được thả còn ngài thì bị đem đi thủ tiêu.
Những người trong họ đạo kể rằng đêm hôm ấy ngài về
báo mộng cho các vị chức sắc trong họ đạo biết chỗ họ ném xác ngài, trong cái
ao nhà ông giáo Sự. Các vị đến nơi được báo mộng thì vớt được xác ngài đã bị
chặt đầu với một vết chém ngang cổ chỗ gần mang tai, có ba vết chém khác trên
mình. Thân xác ngài không hiểu sao bị lột hết quần áo, trần trụi như Chúa Giêsu
trên thập giá, nhưng hai tay vẫn chắp trước ngực như đang cầu nguyện và nét mặt
ngài vẫn bình thản, không có vẻ gì sợ hãi.
Các vị chức sắc lén đưa xác ngài về chôn bí mật
trong phòng thánh nhà thờ Khúc Tréo (nhà ông giáo Sự thuộc họ đạo Khúc Tréo,
làm thế kín đáo hơn đưa về Tắc Sậy). Như vậy, ngài đã tử vì đạo vào ngày 12
tháng 03 năm 1946, nhằm ngày mồng 09 tháng 02 năm Bính Tuất.
Hăm ba năm sau, tức năm 1969, hài cốt ngài được cải
táng, di dời về Nhà thờ Tắc Sậy, nơi ngài đã làm chủ chăn trong 16 năm và là
cha sở thứ nhì của họ đạo Tắc Sậy.
Hai mươi năm sau nữa, tức năm 1989, ngôi mộ của
ngài được trùng tu thành một ngôi nhà mộ nho nhỏ lợp tôn ở phía sau Nhà thờ Tắc
Sậy cũng nhỏ như vậy và khánh thành vào ngày 04-06-1989.
Đầu năm nay, 2010, một ngôi nhà mộ cực kỳ khang
trang và hiện đại đã xây dựng xong, hài cốt ngài được di chuyển vào đó với lễ
cải táng rất long trọng do đức Giám Mục địa phận Cần Thơ chứng kiến. Ngày nào
cũng có các tín hữu ở khắp mọi nơi trong nước cũng như ngoài nước, bên lương
cũng như bên giáo, tới thăm viếng, khấn nguyện và tin tưởng vào sự linh ứng của
ngài.
Chuyện
một số phép lạ của Cha Bửu Diệp
Hiện nay, tuy Giáo Hội Công Giáo tuy chưa phong
Thánh cho Cha Bửu Diệp, nhưng trong lòng nhiều tín hữu Công Giáo, kể cả một số
người thuộc các tôn giáo khác, đã coi Cha như một vị Thánh, vì rất nhiều người
khấn xin với ngài và được ngài ban cho như ý. Tại các nhà thờ Công Giáo trong
nước, rất nhiều giáo dân xin lễ tạ ơn ngài. Đặc biệt, nhiều người không phải
tín đồ Thiên Chúa giáo cũng rất kính mến, tin tưởng ở ngài. Những tấm bảng tạ
ơn Cha Phanxicô Trương Bửu Diệp được gắn trên tường trong căn phòng nguyện tại
Nhà thờ Tắc Sậy nhiều không biết bao nhiêu mà kể.
Theo chúng tôi được biết, ở bên Mỹ, cụ Joan
Baotixita Võ Hữu Hạnh, một nhà văn lớn tuổi, đã sáng lập “Hội những người con
của Cha Trương Bửu Diệp”. Theo cụ, Cha Trương Bửu Diệp đã ban phép lạ cho nhiều
người, cả lương cũng như giáo. Sau đây là một số chuyện về các phép lạ đó, bởi
vậy tiếng tăm về ngài ngày càng lừng lẫy.
Chuyện
gia đình ông Lâm ở Lâm Đồng, Đà Lạt:
Ông bà Lâm không phải tín đồ Thiên chúa giáo và
chuyện này đã diễn ra năm 1977, do chính ông Lâm kể cho ông Ngọc Quang nghe,
ông Ngọc Quang ghi lại trên tập san Đức Mẹ Hằng Cứu Giúp, do cụ Võ Hữu Hạnh chủ
trương.
“Bà Lâm bị bệnh viêm ruột và đau dạ dày từ lâu,
bệnh đã trở thành vô phương cứu chữa. Bác sĩ tại các bệnh viện ở Sài Gòn đều bó
tay. Ông Lâm đành đưa vợ từ Sài Gòn về Lâm Đồng để bà sống những ngày cuối cùng
của mình.
Giữa lúc gia đình vừa đưa bà Lâm về tới nhà thì có
một vị khách đi đường xa, xe bị hư, trong khi chờ tài xế sửa, ghé vào thăm.
Khách là một người cao lớn, khỏe mạnh, gương mặt chữ điền, hàm râu cánh én, vẻ
người phúc hậu với bộ áo dài đen của linh mục.
Ông Lâm vốn tính tình hiền lành, thường rất tôn
trọng các vị tu hành, dù lương hay giáo. Mặc dầu nhà đang bận rộn vì vợ bệnh
nặng, nhưng ông cũng lịch sự tiếp đón khách. Vị linh mục tinh ý hỏi tại sao nét
mặt gia chủ có vẻ buồn rầu. Ông Lâm nói thật là vợ bệnh nặng, mới đưa từ Sài
Gòn về nhà chờ chết. Vị linh mục nói rằng lúc trước mình cũng bị bệnh nặng như
vậy, nhờ một ông bác sĩ tên Hữu cho uống loại thuốc này khỏi bệnh, bây giờ còn
dư lại mấy viên. Cha lấy trong túi áo ra ba viên thuốc trao cho ông Lâm và dặn
chiều cho bà uống một viên, tối lúc 10 giờ một viên và sáng hôm sau một viên
nữa, thế nào cũng khỏi. Ông Lâm tuy không tin lắm nhưng trong lúc tuyệt vọng,
ai bảo sao cũng đành nghe vậy. Giữa lúc ấy người tài xế vào thưa xe đã sửa
xong, vị linh mục bèn từ giã chủ nhà ra đi. Chủ nhà cảm ơn Cha và hỏi cho biết
Cha ở đâu, vị linh mục nói mình trông coi xứ đạo Tắc Sậy? tỉnh Bạc Liêu.
Sau khi uống viên thuốc thứ nhất vài giờ, bà Lâm
cảm thấy bớt đau, trong mình dễ chịu, biết đói và thèm ăn, ngủ ngon. Buổi tối,
khoảng chừng 10 giờ, tự nhiên bà thức giấc và nhớ lời Cha dặn, bèn uống thêm
viên thuốc thứ hai. Sáng hôm sau thức dậy, bà thấy trong người khỏe khoắn,
không còn mệt mỏi và đau đớn như trước. Bà sung sướng báo tin cho chồng hay.
Ông Lâm mừng quá bèn đem viên thuốc còn lại đến các tiệm để làm mẫu, mua thêm
cho chắc ăn. Nhưng ông đi khắp nơi, kể cả các tiệm thuốc Tây lẫn thuốc Bắc,
song chẳng ai biết đó là thuốc gì. Ông đành trở về, cho bà uống nốt viên còn
lại và định có dịp sẽ xuống Minh Hải (năm 1977, hai tỉnh Bạc Liêu và Cà Mau bị
sáp nhập lại với nhau thành tỉnh Minh Hải) thăm Cha và nhờ Cha nói với ông “bác
sĩ Hữu” bán thêm giúp.
Muốn đi từ Lâm Đồng xuống Cà Mau thì phải về Sài
Gòn, xuống Cần Thơ, qua Sóc Trăng rồi mới tới Bạc Liêu, và Hộ Phòng là thị trấn
của huyện Giá Rai tỉnh Bạc Liêu, cách thị xã Bạc Liêu 37 cây số, nơi có Nhà thờ
Tắc Sậy. Việc giao thông lúc ấy rất khó khăn, phải xếp hàng từ khuya ở Bến Xe
Miền Tây để mua vé xe, có khi xếp hàng cũng không mua được vé, đường đi lại lồi
lõm, hết sức cực khổ. Bà Lâm mới khỏi bệnh, khó chịu đựng nổi với những chiếc
xe cà rịch cà tàng, cổ lỗ đó. Đang lúc ông Lâm lo âu thì có người cháu làm
trong cơ quan nhà nước đến chơi, cho biết anh ta sắp đi công tác tại Minh Hải
để giao dịch mua lương thực cho tỉnh. Ông Lâm mừng quá, bèn nói với cháu cho đi
nhờ xe xuống Tắc Sậy, tiền xăng ông chịu. Người cháu nhận lời vì Nhà thờ Tắc
Sậy nằm ngay trên đường Bạc Liêu đi Cà Mau và cách thị xã Cà Mau khoảng 20 cây
số, anh ta chở chú thím tới Tắc Sậy rồi xuống Cà Mau không có gì khó.
Khi qua Bạc Liêu, xuống tới thị trấn Hộ Phòng, Nhà
thờ Tắc Sậy nằm cách chợ Hộ Phòng khoảng một cây số, ở phía bên trái. Ông bà
Lâm không thể ngờ được nơi ở của vị cha sứ ân nhân lại nhỏ như vậy. Đó là ngôi
nhà thờ mái lợp tôn, vách ván, xiêu vẹo trông rất tiêu điều. Đất nhà thờ rộng
mênh mông nhưng chung quanh toàn đồng ruộng, dân cư thưa thớt.
Chiếc sân đất của nhà thờ không có cổng. Vợ chồng
ông Lâm xuống xe, đi vô. Một ông lão bộc (thường gọi là ông Từ) đang quét trên
sân. Trông thấy khách lạ, ông Từ có vẻ ngạc nhiên vì ít khi có khách phương xa
đến thăm ngôi nhà thờ này. Ông Lâm nói muốn gặp cha sở, ông Từ mời vào bên
trong rồi vào mời cha.
Một lát sau, vị linh mục ra, ngài cho biết ngài là
Linh mục Phêrô Nguyễn Ngọc Tỏ, cha sở họ đạo Tắc Sậy. Ông bà Lâm rất ngạc
nhiên, vị linh mục này trông không giống vị linh mục đã cho thuốc một chút nào
hết, mà sao hai vị đều tự nhận mình là cha sở họ đạo Tắc Sậy? Ông Lâm bày tỏ sự
tình và kể mình đã gặp một vị linh mục cao lớn, tóc ngắn, gương mặt chữ điền,
hàm râu cá chốt. Cha Tỏ mỉm cười, không lấy gì làm lạ, bèn dẫn vợ chồng ông Lâm
qua phía bên hông nhà thờ, tới ngôi mộ của Cha Diệp. Vừa nhìn thấy tấm hình
trên bia mộ, tự nhiên ông Lâm quỳ phục xuống và quả quyết đây chính là vị ân
nhân đã cho thuốc, cứu bà Lâm khỏi bệnh. Bà Lâm cũng quỳ xuống tạ ơn ngài. Ông
bà là người bên lương, không biết làm dấu Thánh Giá.
Lúc ra về, ông bà Lâm gửi Cha sở một số tiền nho
nhỏ để giúp nhà thờ vì lúc ấy ai cũng nghèo, ông bà không có nhiều. Có lẽ ông
bà Lâm là những người đầu tiên đã giúp nhà thờ từ năm 1977”.
Chuyện
bức ảnh đẫm máu
Sau đây là nguyên văn bức thư của GS Trần Anh Linh
gởi cho cụ Võ Hữu Hạnh, nói về bức ảnh đẫm máu. Xin ghi chú thêm rằng chuyện
này xảy ra cách đây khoảng chừng 2 năm (2008) và hiện nay Linh mục Gioan Minh
vẫn còn ở tại Nhà thờ Hiển Linh đường Ngô Tất Tố (Dương Công Trừng cũ) thuộc
giáo phận Thị Nghè. Ngài nổi tiếng về việc khấn nguyện Đức Mẹ giùm những người
bệnh tật kết quả rất tốt. Hằng ngày, mọi người ở khắp các nơi đến nhờ ngài khấn
rất đông nhưng chính quyền địa phương đã ra lệnh cấm vì không muốn có sự tụ tập
đông đúc.
Sau đây là bức thư của GS Trần Anh Linh:
“Anh Hạnh thân mến,
Tôi xin gửi tặng anh món quà quí giá mà Cha Diệp đã
ban cho tôi qua Cha Gioan Minh: Cha Diệp đã thực hiện một phép lạ nhãn tiền là
dùng chính tấm ảnh mà chúng ta đã cho họa sĩ Đại Hàn ở khu Phúc Lộc Thọ vẽ rồi
in ra nhiều ấn bản, vừa làm thành sách, vừa in thành ảnh gởi tặng và bán khắp
nơi.
Tấm ảnh đó đã đổ máu đào lênh láng từ vết chém bằng
đao kiếm đứt cổ, máu Cha đã đổ ra thấm ướt làm mờ hàng chữ Trương Bửu Diệp bên
dưới.
Câu
chuyện xảy ra như sau:
Cha Gioan Minh (cựu Tuyên Úy), sau 12 năm học tập
cải tạo, đã được cho về và sống ở nhà thờ Chúa Hiển Linh tại Thị Nghè nơi xưa
kia Cha Dụ đã thành lập. Cha Minh ở lại Việt Nam, không xin ra nước ngoài theo
diện HO dù cha có tới 12 năm ở tù.
Một hôm cha vào Nhà sách Đức Mẹ Hằng Cứu Giúp ở
đường Kỳ Đồng và chọn mua một tấm ảnh của Cha Diệp mà cha đã nghe có nhiều phép
lạ. Cô bán hàng dùng giấy báo gói bức ảnh có đóng khung sẵn trao cho cha Minh.
Cha Minh về đến nhà, tính mở ra để treo lên tường thì một ơn lạ đã xảy ra, là
máu tươi từ cổ bức ảnh tuôn trào ra thấm ướt cả tờ báo gói bức tranh.
Cha Minh kinh ngạc bèn cho đó là một dấu chỉ quan
trọng, nên đã gói lại cẩn thận và lặng lẽ đem lên Tòa Tổng Giám Mục Saigon
trình với Đức Cha Phạm Minh Mẫn. Theo cha Minh cho biết thì tấm ảnh thấm máu
này đã được gởi qua để Tòa Thánh xét nghiệm, hy vọng rằng đã đến lúc Tòa Thánh
cho lập Ban Điều Tra, tìm hiểu về các ơn lành Cha Diệp đã làm mà việc lạ lùng
làm cho máu đào từ vết cổ đổ ra sẽ là một trong những chứng cớ để Tòa Thánh có
thể tôn phong Chân Phước cho Cha.
Tôi là bạn thân của cha Minh nên cha đã tặng tôi
một tấm. Tôi sao lại và gởi tặng anh, đây là tài liệu mới nhất về Cha Diệp, anh
nên ghi chú vào tập sách Các Ơn Lành của Cha”.
Trần Anh Linh.
Chuyện
ông chủ thầu vật liệu xây dựng
Từ những năm thuộc thập niên 1980 trở về sau, hằng
năm cứ vào các ngày 11-12 tháng 3 dương lịch, dòng người lương, giáo từ các nơi
lại đổ về Tắc Sậy. Trên những chiếc xe đò chở khách, người ta có thể thấy hình
một vị linh mục mặt vuông chữ điền rất dễ mến. Họ xuống để dự lễ giỗ của Cha
Phanxicô Xaviê Trương Bửu Diệp.
Ông Phước, người trông coi phần mộ của Cha Diệp tại
Nhà thờ Tắc Sậy, kể lại câu chuyện sau đây vào một buổi trưa tháng 04-2010 như
sau:
“Vào khoảng những năm đầu thập niên 1980, bờ kinh
cạnh khu nhà thờ này còn là một bãi đất trống, làm nơi ghe và xe cộ dừng lại đổ
hàng. Nửa đêm, có một ông chủ ghe chở đầy vật liệu xây dựng như gạch, cát,
xi-măng... đậu bên bờ kinh. Ông bỗng trông thấy một vị khách mặc áo dài đen
theo kiểu nhà dòng từ trên bờ bước xuống. Vị khách tự xưng mình là cha xứ Nhà
thờ Tắc Sậy, muốn mua hết các vật liệu trên ghe để xây lại nhà thờ. Giá cả xong
xuôi, chủ ghe đồng ý bán và hẹn hôm sau sẽ cho công nhân đem hàng lên xong, ông
sẽ nhận tiền.
Sáng hôm sau, trước khi giao hàng, chủ ghe lên Nhà
Thờ, định gặp cha xứ để biết chỗ cho công nhân xếp hàng. Đến khi gặp linh mục
Phêrô Nguyễn Ngọc Tỏ, ông rất ngạc nhiên, từ giọng nói cho tới gương mặt, thân
hình, vị linh mục này trông không giống với vị khách có ria mép hôm trước một
chút nào cả. Cha Tỏ nói: “Tôi hiểu, đó chính là linh hồn cha sở Phanxicô Trương
Bửu Diệp đấy. Ý ngài muốn xây lại nhà thờ nên hiện ra như vậy.” Cha kể cho ông
chủ thầu nghe các chuyện linh ứng của Cha Bửu Diệp rồi nói: “Ý tôi cũng muốn
xây lại ngôi Nhà Thờ cho đàng hoàng, nhưng họ đạo nghèo, chưa đủ tiền. Thôi thì
đành cáo lỗi với ông và hẹn khi khác.” Ông chủ thầu nói: “Cha Diệp đã linh ứng
như vậy thì con không dám lấy tiền. Mặc dầu con là người bên lương nhưng con
xin hiến tất cả các vật liệu trên ghe để Nhà Thờ xây sửa lại, không nhận một
đồng nào cả”. Ông chủ thầu lập tức cho người khuân gạch, cát, xi-măng từ dưới
ghe lên rồi đi, ngay cả tiền công bốc xếp của các công nhân ông cũng tự trả,
không để nhà thờ phải trả.
Không ngờ, từ đấy, ông chủ ghe buôn bán ngày càng
phát đạt. Ông cho rằng mình được Cha Diệp phò hộ nên mỗi lần đi qua Hộ Phòng
ông thường quay lại Nhà thờ Tắc Sậy để tạ ơn Cha.
Cũng theo ông Phước, những chuyện linh ứng của Cha
Diệp ngày một lan rộng. Từ đó về sau, khách thập phương kéo về nườm nượp để cầu
xin Cha ban ơn lành. Nhất là các nghệ sĩ cải lương nổi tiếng, rất nhiều người
xuống, họ cầu xin Cha chuyện này chuyện khác, và ai cũng được toại nguyện. Lời
nguyện đắc thành, họ đến đền ơn Cha, người thì ghế đá, người thì vật dụng dùng
cho nhà thờ, người thì tiền bạc..., nhiều không sao kể xiết. Cứ thế, vào những
này cuối tuần hoặc trong dịp lễ giỗ Cha (12 tháng 03 dương lịch), khách thập
phương kể cả trong nước lẫn ngoài nước về kính viếng Cha đông như trẩy hội. Có
nhiều người đem theo cả những chai nước La Vie đến để bên cạnh mộ, cầu nguyện
trước khi mang về cho người trong gia đình. Nhưng cũng có những người tin tưởng
đến độ cầu nguyện trong nhà thờ, trước mộ của Cha chưa đủ, họ còn hỏi thăm, tìm
đến chiếc ao nhỏ của gia đình ông giáo Sự ngày xưa để chiêm ngưỡng nơi Cha đã
bị sát hại.
Điều lạ lùng hơn nữa là theo như lời của vị cha xứ
hiện nay là Linh mục Phaolô Nguyễn Thanh Bình, thì có tới 70% khách thập phương
xuống Giá Rai kính ngưỡng Cha Diệp là người ngoại đạo hoặc Việt Kiều từ nước
ngoài về. Có những người chưa về nhưng đã “nghe nói” tới sự linh ứng của Cha
nên đã gửi tiền về giúp nhà thờ xây dựng được một cơ ngơi lớn lao như ngày nay,
khả dĩ có thể đón tiếp bất cứ các nhóm hành hương nào dù đông bao nhiêu, họ đều
có chỗ nghỉ ngơi đàng hoàng mà không cần phải đóng góp gì cả.
Để kết luận bài này, tôi xin thưa với quý vị độc
giả thân mến rằng tôi không phải là người Công giáo, nhưng tôi biết trong Thánh
Kinh Công giáo có câu nói của Đức Chúa Giêsu: “Phúc cho ai không thấy mà tin.”
Vậy, nay tôi xin dùng câu nói này để cầu Chúa và Cha Diệp ban ơn cho quý vị.
Amen.
Đoàn Dự ghi chép.