ĐỪNG KHÓC THƯƠNG TÔI SUDAN! (kèm VIDEO)
Sinh trưởng trong một gia đình nghèo khó gồm 10 anh
chị em, cha Gioan Lee Tae Suk là người con thứ chín. Năm cha lên 9 tuổi, người
bố qua đời để lại gánh nặng gia đình trên đôi vai người mẹ. Người mẹ đã phải
tần tảo làm nghề may vá để nuôi nấng đàn con 10 anh chị em. Ngay từ khi còn bé,
cha Gioan Lee đã phải sống trong cảnh nghèo khó. Sân chơi của cha chính là ngôi
Nhà Thờ gần nhà. Ngay khi còn học bậc Tiểu học, cha đã tỏ ra yêu thương các
người nghèo khổ và có ý tưởng thành lập một Cô Nhi Viện cho các trẻ em mồ côi.
Một ngày nọ, khi chứng kiến cảnh một người ăn xin nghèo khó, rách rưới mà cha
(lúc đó là một cậu bé) không có gì để giúp đỡ người ăn xin này. Cha đã chạy về
nhà và hỏi mượn người chị 1 cây kim và sợi chỉ để khâu lại chiếc quần rách rưới
cho người ăn xin. Sống trong tuổi thơ nghèo túng, có những ngày cậu bé Gioan
Lee Tae Suk đã phải ngồi chờ mẹ về ở ngoài đường, trong con hẻm gần nhà… Do đó,
tuổi thơ của cha đã sớm cảm thông với những nỗi bất hạnh của con người. Khi lên
bậc Trung học, cha đã tự học đàn Guitar và chơi dương cầm… Năng khiếu âm nhạc
đến với cha một cách tự nhiên và dễ dàng. Có lẽ đó là nguồn cảm hứng giúp cha
giải bày những xúc động ẩn chứa trong tâm hồn khi chứng kiến những cảnh nghèo
đói, bất công và bệnh tật của những người nghèo khổ trong xã hội. Cha đã tự
sáng tác ra những bản nhạc lúc còn học ở Trung học. Những bản nhạc này như một
cầu nối giúp cha đến gần với Thiên Chúa. Cha đã chia sẻ những cảm nhận của mình
qua âm nhạc. Âm nhạc đóng một vai trò quan trọng trong cuộc đời của cha, giúp
cha sống đạo hạnh hơn ngay khi còn là một học sinh bậc Trung học. Và sau này,
trong cuộc đời truyền giáo của mình, âm nhạc đã giúp cha đến được với những đứa
trẻ quen sống trong cảnh bạo lực tại Nam Sudan và từ đó, âm nhạc đã giúp cha
chuyển hướng tâm hồn chúng thành những đứa trẻ đầy năng khiếu sáng tạo trong âm
nhạc. Là một trong những đứa trẻ rất nghèo, nhưng cha Gioan
Lee Tae Suk đã cố gắng học và thi đậu vào trường Y khoa – một nơi mà ngay cả
những đứa trẻ nhà giàu được cho ăn học tử tế - cũng rất khó được chọn vào. Và
cha đã trở thành một bác sĩ Y khoa với con đường giàu sang và danh vọng mở rộng
trước mặt; được trở thành một người giàu sang, quyền quí và được xếp vào bậc
thượng lưu trong xã hội. Viễn ảnh tương lai thật huy hoàng ngay trước
mặt….Nhưng sau những năm tháng phục vụ như một bác sĩ Y khoa trong quân đội,
cha đã cảm nhận được tiếng gọi mãnh liệt của Thiên Chúa. Và cha đã quyết định
từ bỏ tất cả con đường sự nghiệp đang mở rộng thênh thang trước mắt để bước vào
Dòng tu Salêriêng- Don Bosco và trở thành Linh mục - người của Chúa. Đứng trước
sự chọn lựa của cha, người mẹ đã đau đớn vì phải hy sinh trong suốt bao năm
tháng nuôi con trưởng thành; nay lại nhìn thấy viễn cảnh của cuộc sống khó
nghèo do bởi sự chọn lựa đó của con mình. Người mẹ đã không đành lòng mất
đi người con yêu dấu sau những tháng ngày vất vả nuôi nấng con nên người. Nhưng
rồi bà cũng phải nhận ra Ơn gọi mãnh liệt mà Thiên Chúa đã gieo vào tâm hồn cậu
bé Gioan Lee Tae Suk ngay những ngày còn nhỏ. Cha đã biết ơn người mẹ đã hy
sinh trọn vẹn cuộc sống để lo cho đàn con. Và giờ đây, lại một lần nữa, người
mẹ đó đã hy sinh những danh vọng lẽ ra sẽ nhận được nếu người con tiếp tục con
đường phục vụ như một người bác sĩ tại nơi chính quê nhà của ông – Hàn Quốc.
Người mẹ cuối cùng đã nhận ra tiếng gọi của Thiên Chúa đối với con mình còn cao
cả hơn tất cả những gì mà thế gian mang lại. Thế là Gioan Lee Tae Suk bước vào Dòng
tu Salêriêng- Don Bosco.
Vào những năm tháng còn ở Dòng, thầy Gioan Lee
Tae Suk đã có lần được đến thăm miền Nam Sudan- Phi Châu. Ở nơi đó đã xảy ra
cuộc chiến tranh Nam- Bắc vào năm 1983, và cuộc chiến đó đã tàn phá khủng khiếp
đất nước này. Cuộc chiến đã làm hơn hai triệu người bị chết và đã để lại bao
nhiêu tang tóc cho những người dân quê nghèo khổ. Những người còn sống sót sau
chiến tranh thì lại bị chết vì bệnh tật và nghèo đói. Họ phải sống nơi một vùng
đất mà nguồn nước uống bị ô nhiễm trầm trọng.
Do đó, ngay sau buổi lễ truyền chức LInh mục
tại Vatican- Rome, cha Gioan Lee Tae Suk đã xin tình nguyện đến phục vụ
tại miền Nam nước Sudan
ở Phi Châu. Tại nơi đây, vào năm 2001, cha đã mở phòng khám bệnh đầu tiên tại
Nam Sudan, và là người bác sĩ duy nhất tại đó. Mỗi ngày, cha khám và chữa trên
300 bệnh nhân. Có những bệnh nhân đã đi bộ hàng trăm Kilômét để đến với cha. Có
cả những người phải đi bộ 2-3 ngày đường để đến được nơi phòng khám. Mỗi ngày
đều có 30-40 người chờ đợi để được khám bệnh. Nhận thấy nhu cầu quá lớn của
những người dân tại Nam Sudan, cha đã quyết định xây một bệnh viện bằng những
viên gạch do chính tay cha và dân làng tự làm nên. Cha đã đặt mua xi măng từ Kenya
và lấy cát từ dòng sông Tonj thuộc Nam Sudan. Dưới cái nóng trên 50 độ C, cha
đã cùng làm việc với những người dân làng để đúc những viên gạch và dung chính
những viên gạch đó để xây dựng thành một bệnh viện. Năm 2007, bệnh viện do cha
Gioan Lee Tae Suk và dân làng xây được hình thành gồm 12 phòng. Nơi đây, cha đã
chữa trị cho các bệnh nhân bị bệnh phổi, tiêu chảy, sốt rét, các phụ nữ mang
thai, các trẻ em cần chủng ngừa dịch tả v.v…
Cha không bao giờ từ chối bất kỳ một bệnh nhân
nào đến với cha, ngay cả vào ban đêm khi cha đang yên ngủ sau một ngày làm việc
mệt nhọc. Khi có những bệnh nhân đang trong tình trạng nguy kịch đến cầu cứu
cha vào ban đêm, cha vẫn sẵn lòng giúp họ mà không một lời phàn nàn than trách.
Các bệnh nhân vẫn liên tục kéo đến với hy vọng được cha chữa lành các vết
thương cả thể xác lẫn tâm hồn. Với họ, cha là một người cha và là một thầy
thuốc. Cha đã đến với họ bằng tất cả tình yêu thương mà họ chưa bao giờ được
ban phát. Cha là hiện thân của Chúa Giêsu trong trái tim và tấm lòng của họ.
Tại nơi này không có nguồn điện. Do đó, cha đã tự làm những tấm năng lượng mặt
trời để tạo ra nguồn điện dùng để cung cấp điện năng cho các tủ lạnh để bảo
quản các loại thuốc chủng ngừa cho trẻ em. Mỗi ngày thứ Tư trong tuần, cha lái
xe đến 8 ngôi làng khác nhau để chữa bệnh cho những người phong cùi, mù lòa ...
khi họ không thể đi xa được, mà chỉ có thể ngồi tại nhà của họ. Thậm chí, có
những người không có ai chăm sóc thì bị chết trong nhà mà không ai hay biết.
Cha luôn sẵn sàng giúp đỡ bất kỳ ai cần đến ngài.
Năm 2005, khi hòa bình được tái lập giữa miền Nam và
Bắc Sudan, bảo đảm sự an ninh khi di chuyển; thì đến năm 2006, cha bắt đầu
chương trình thăm viếng các bệnh nhân bị phong cùi khi họ không thể bước chân
ra khỏi nhà. Trước khi cha đến, họ đã chết mà cũng không biết chết vì bệnh gì?
Cha đã thành lập một ngôi làng cho những người
mắc bệnh phong ở và cấp thuốc để chữa trị và ngăn ngừa chứng bệnh lây lan. Cha
là người duy nhất yêu thương họ, đến với họ và lắng nghe họ. Mỗi lần cha đến
thăm họ, cha không bao giờ đi với hai bàn tay không. Cha luôn có quà cho tất cả
mọi người, khi thì là những cái áo, khi thì là những đôi vớ, lúc thì là những
cái quần, những đôi giày, những cái áo ấm v.v... Cha là người đã khâu những vết
thương đầy máu mủ nơi chân tay những người bệnh phong và băng bó vết thương cho
họ. Cha đã đo chân từng người và đặt làm những đôi giày cho họ mang để họ bớt
đau đớn mỗi khi di chuyển. Không hề có một rào cản nào ngăn cách giữa cha và
những người mắc bệnh phong cùi này. Họ đã sống trong hạnh phúc vì đã được
yêu thương mặc dù họ rất nghèo và bị xã hội bỏ rơi. Cha là một Linh mục đầu
tiên trong lịch sử Hàn Quốc đã từ bỏ đất nước của mình và sang phục vụ bên Phi
Châu. Cha đã sống và đã hội nhập để trở thành một người dân làng Tonj.
Trong cuốn tự truyện: “Các Con Là Những Người
Bạn Của Cha”, cha đã chia sẻ động lực thúc đẩy cha đến miền Nam Sudan là: Ngay
khi còn nhỏ, cha đã cảm nhận được sự hy sinh của người mẹ nuôi nấng và lo lắng,
chăm sóc cho đàn con 10 người. Lớn lên, cha nhìn thấy gương hy sinh phục vụ của
các cha, các soeur nơi cha sinh trưởng; và nhất là của chính một người anh làm Linh
mục, và một người chị làm nữ tu. Đặc biệt hơn cả là sự hy sinh tận cùng của
người mẹ khi chấp nhận cho cha từ bỏ con đường sự nghiệp của người bác sĩ để
trở thành Linh mục. Bà mẹ đã từ bỏ sự hưởng thụ giàu sang khi có con làm bác sĩ
để sẵn sàng nâng đỡ cha khi ngài quyết tâm đi theo lời mời gọi của Chúa. Chính
những tấm gương sáng đó đã là những động cơ thúc đẩy cha lên đường đi đến Sudan- một nơi
nghèo khổ nhất trên thế giới để phục vụ cho những người nghèo, bệnh tật và bất
hạnh. Ở nơi đó, cha là người đã xây dựng một ngôi trường học đầu tiên từ cấp
mẫu giáo đến cấp trung học. Các giáo sư được cha mời đến từ Keyna để dạy cho
các em. Và chính cha cũng đã dùng thời gian eo hẹp của mình để dạy môn toán cho
các em.
Nhìn cảnh các trẻ em ngay từ nhỏ đã làm quen
với súng đạn, cha quyết tâm phát triển năng khiếu âm nhạc nơi tâm hồn các em để
thay những khẩu súng trong tay các em thành những chiếc kèn đồng. Cha đã dùng
âm nhạc để xoa dịu những vết thương chiến tranh trong lòng các em. Thế là cha
đã hy sinh những giờ ngủ để tập những nhạc cụ, tập thổi kèn trước rồi sau đó
dạy cho các em học. Và cuối cùng, giấc mơ của cha đã thành hiện thực. Một đội
kèn đầu tiên ở Nam Sudan đã được thành lập. Cha đã xin các ân nhân để gửi tặng
những bộ đồng phục của ban kèn cho các em mặc. Cha nâng đỡ những đứa trẻ và
phát triển tài năng về âm nhạc của chúng để chống lại bạo lực tại nơi đây. Khi
tâm hồn những đứa trẻ bị tan vỡ do những vết thương chiến tranh tạo ra, qua âm
nhạc, chúng sẽ tìm được niềm vui và hy vọng. Đây là một biến cố vô cùng trọng
đại trong một đất nước bị tàn phá quá nhiều do bởi chiến tranh. Đối với những
người dân tại Sudan
thì có được một ban kèn là một sự việc ngoài trí tưởng tượng của họ, và là một
biến cố gây kinh ngạc mãnh liệt cho họ. Vì từ đây, những đứa trẻ không còn cầm
súng trên tay mà thay vào đó là những chiếc kèn mang lại những âm thanh của hòa
bình, tình yêu và hy vọng….
Nhưng thật đau buồn thay, trong một chuyến nghỉ
hè vào tháng 10/2008: Khi trở về Hàn Quốc, cha đã làm một cuộc xét nghiệm sức
khỏe tổng quát theo lời khuyên của một bác sĩ, và cha đã phát hiện ra mình đang
mang chứng bệnh ung thư ruột già ở giai đoạn cuối. Trong những ngày cuối cùng
của cuộc đời, cha vẫn chiến đấu dũng cảm với cơn bệnh qua 14 lần chạy hóa trị
(chemotherapy) để mong được trở về lại Sudan thăm các em. Cũng trong những
ngày tháng chữa bệnh này, cha đã viết cuốn sách: “Các Con Là Những Người Bạn
Của Cha”. Và cuốn sách đã được phát hành vào tháng 05/2009. Một tháng trước khi
về với Chúa, biết mình không thể trở lại Sudan được, cha đã mời hai em trong
đội kèn đến thăm cha tại Hàn Quốc. Và tại đây, cha đã bảo trợ cho hai em đó
được vào học Đại học.
Cuối cùng, vào ngày 14/01/2010, cha đã ra đi về
với Chúa khi đã sống trọn vẹn 48 năm cuộc đời tại dương thế với những ngày
tháng phục vụ trọn vẹn cho những người đau khổ, bệnh tật, phong cùi, nghèo đói
... tại Sudan. Ngày 16/01/2010 là Thánh Lễ An Táng cha tại nhà dòng Saleriêng –
Don Bosco. Cha đã ra đi trong nụ cười, còn những người ở lại đã đưa tiễn cha
trong những giọt nước mắt của đau đớn và tiếc thương. Mặc dù cha đã ra đi về
với Chúa, nhưng Niềm Tin của cha đã biến thành hiện thực. Cha đã sống và đã
cống hiến trọn vẹn cuộc đời của cha cho những người đau khổ và bất hạnh.
Tin cha qua đời bay đến Sudan và những người dân ở đây đã
đau đớn và không thể chấp nhận một thực tại phũ phàng, quá nhiều mất mát cho
họ. Họ khóc thương cha như khóc thương một người thân yêu duy nhất đã yêu
thương họ, đã chăm sóc tận tình cho họ, đã chia sẻ và ủi an họ với một tình yêu
đồng lọai mà họ chưa từng được biết đến. Có những người dân làng xa xôi đã đi
bộ hơn 4 ngày trời để được đến tham dự nghi thức tiễn biệt cha lần cuối tại
ngôi Thánh Đường mà chính cha đã cùng với họ xây cất nên. Họ mang trên tay
những tấm ảnh của cha như muốn níu kéo cha ở lại mãi với họ. Các em trong ban
kèn đã diễn hành từ căn Nhà thương- nơi cha xây dựng và chữa bệnh đến ngôi Thánh
Đường- nơi cử hành nghi thức tiễn biệt người cha thân yêu của họ. Tất cả những
người dân làng từ khắp nơi kéo về, có những người đã đi bộ hơn 400Km để đến
tham dự nghi thức tiễn biệt cha lần cuối. Những dòng nước mắt khóc thương cho
một người cha hiện thân của Tình Yêu và Hy Vọng; hiện thân của Chúa Giêsu trong
tâm hồn họ. Chính cha là người đã xoa dịu và chữa lành bao vết thương nơi thể
xác lẫn tâm hồn của những người dân đau khổ đang sống tại một nơi nghèo nhất
thế giới văn minh này.
Tại nơi đây, những người dân làng đơn sơ, chất
phát đã khóc thương cha như khóc thương người cha tinh thần của họ. Trong tâm
hồn và trong trái tim của họ đã không còn ranh giới giữa giàu sang và đói khổ,
mà chỉ còn lại tình yêu và sự đau xót nhớ thương. Họ đau đớn vì đã mất đi một
con người đã đến sống và ở giữa họ; đã yêu thương và trao tặng họ món quà vô
giá của tình người. Họ đau đớn vì đã không còn một niềm an ủi và hy vọng giữa
cảnh sống nơi một xã hội mà họ đang bị bỏ rơi một cách nghiệt ngã.
Cha Gioan Lee Tae Suk không chỉ là một người
cha, một Linh mục mà cha đã là TẤT CẢ của họ. Cha đã sống và đã rao giảng Tin
Mừng của Chúa Giêsu bằng chính cuộc đời của cha. Cha là hiện thân của Chúa
Giêsu trong lòng những người dân làng Tonj tại Nam Sudan, nơi mà bản thân họ
đang phải chịu đựng những tổn thương do bởi một xã hội đầy rẫy những bất công
và một thế giới tràn ngập những đau khổ tạo ra… Cha đã gieo những hạt giống của
Đức Tin và Tình Yêu trong tâm hồn những người dân đau khổ và bất hạnh này. Sự
ra đi của cha ở độ tuổi 48 khi Ngài còn đang tha thiết muốn phục vụ và được
phục vụ những người dân nghèo là một nỗi đau và là sự mất mát không thể bù đắp
nơi tâm hồn của những người dân làng Tonj đầy bất hạnh này. Nhưng Niềm Tin mà
cha đã gieo rắc và vun đắp trong trái tim và tâm hồn của các trẻ em, nơi các
người già yếu, bệnh tật, phong cùi, mù lòa v.v… ; Niềm Tin đó vẫn sống mãi
trong lòng họ… Vì trong một thế giới đầy đầy bất hạnh và bạo lực này, vẫn đang
có những bàn tay và những tâm hồn của những người môn đệ theo chân Chúa, những
ngừời đang hy sinh cả cuộc đời để sống cho Tình Yêu của Chúa, và mang Tình Yêu
đó xoa dịu những vết đau và lau rửa những vết thương trong tâm hồn và nơi thể
xác của bao người bất hạnh.
|