Normal
0
false
false
false
MicrosoftInternetExplorer4
1. NHÀ TRUYỀN GIÁO GƯƠNG MẪU CỦA THẾ KỶ
XVII.
Theo một số sử liệu, Linh Mục
Alexandre de Rhodes - giáo sĩ Đắc-Lộ - sinh năm 1591. Một số
sử liệu khác ghi năm 1593.
Chúng tôi xin gợi lại những nét đặc thù
của nhà truyền giáo, có công rất lớn đối với Giáo Hội Công Giáo và nhất là, đối
với dân tộc Việt Nam, vì Cha đã khai sinh ra chữ Quốc Ngữ.
Linh Mục Alexandre de Rhodes, sinh tại Avignon, miền Nam nước Pháp. Alexandre gia nhập
Tập Viện dòng Tên tại Roma vào thời kỳ công cuộc truyền giáo cho các dân tộc
đang trên đà phát triển rất mạnh. Tuy nhiên, cùng với đà tiến này, Giáo Hội
Công Giáo cũng gặp sức kháng cự vũ bão của chính quyền các dân tộc được rao
giảng Tin Mừng. Vì thế, bên cạnh nhiệt tâm truyền giáo, còn phải kể ước muốn đổ
máu đào minh chứng cho Đức Chúa GIÊSU KITÔ của các vị thừa sai tiên khởi.
Trong bối cảnh đó, Cha Alexandre de
Rhodes đã xin và được Bề Trên chỉ định đi truyền giáo tại Nhật Bản.
Ngày 4-4-1619, Cha lên đường với số tuổi
26, cùng với kiến thức khá sâu rộng về thiên văn học và toán học.
Cha Alexandre có thân hình cường tráng,
biểu lộ sức khoẻ dồi dào và tâm tình tươi trẻ. Nơi Cha, nổi bật đức tính lạc
quan, luôn nhìn khía cạnh tích cực của vấn đề. Cha thích nghi nhanh chóng với
mọi môi trường sống. Cha cũng giản dị tự nhiên trong giao tế với người khác.
Ngoài ra, Cha có tinh thần linh động, trí nhớ dẻo dai và tâm hồn bao dung. Nhất
là, Cha có tấm lòng nhiệt thành, không bao giờ lùi bước trước khó khăn hoặc
gian nguy.
Ngay từ xuân trẻ, Cha Alexandre biết quên
mình để đi đến với người khác và dễ dàng chấp nhận người khác. Với tất cả đức
tính cao quý ấy, Cha Alexandre de Rhodes trở thành nhà truyền giáo gương mẫu và
là một trong những vị thừa sai vĩ đại nhất của lịch sử Giáo Hội Công Giáo.
Nhờ Cha mà thế giới Tây phương thời đó
hiểu rằng, không phải cái nghèo đói hoặc kém văn minh của các dân tộc Châu Á
lôi kéo sự chú ý của các vị thừa sai, cho bằng, chính nét đẹp cao quý tinh thần
của các dân tộc Á Châu đã thu hút và khơi động nhiệt tâm tông đồ của các nhà
truyền giáo..
Trước tiên, Cha Alexandre de Rhodes cập
bến tại Goa, đợi chờ cơ hội thuận tiện đặt chân lên đất Nhật Bản. Nhưng tình
hình bách hại Kitô-Giáo dữ dội tại đây khiến các Bề Trên buộc lòng chỉ định Cha
đi Trung Quốc. Cha lên tàu đi Macao.
Nơi ngưỡng cửa Trung Quốc, Cha ghi lại nhận xét:
- Người Trung Hoa rất ngạc nhiên khi nhìn
thấy bản đồ chúng tôi vẽ. Trung Quốc vĩ đại của họ chỉ là một chấm nhỏ trong vũ
trụ trái đất bao la. Trái lại, nơi bản đồ trái đất hình vuông do họ vẽ, Trung
Quốc nằm chính giữa, đúng như tên gọi. Sau đó, họ vẽ biển nằm bên dưới Trung
Quốc, trong đó rải rác mấy đảo nhỏ, và họ đề tên: Âu Châu, Châu Phi và Nhật
Bản...
Sáu năm truyền giáo tại Goa và tại Macao,
tuy hơi ngắn ngủi, cũng đủ giúp Cha Alexandre de Rhodes có cái nhìn độc đáo và
đúng đắn nhất của vị thừa sai vào thế kỷ XVII. Cha viết:
- Chúng ta thường tỏ ra quý chuộng những
người ngoại giáo. Nhưng khi họ trở thành Kitô hữu, chúng ta không đoái hoài đến
họ nữa. Thậm chí còn bắt người theo Đạo phải từ bỏ y phục địa phương. Chúng ta
đâu biết rằng, đây là đòi buộc quá khắt khe, mà ngay cả THIÊN CHÚA, Ngài cũng
không đòi buộc! Chúng ta ngăn cản người ngoại giáo, không cho họ cơ hội dễ dàng
gia nhập Giáo Hội Công Giáo. Riêng tôi, tôi cực lực phản đối những ai muốn bắt
buộc người đàn ông Trung Hoa, khi theo Đạo, phải cắt bỏ mái tóc dài họ vẫn để,
y như các phụ nữ trong xứ. Hành động như thế, chúng ta gây thêm khó khăn cho
các nam tín hữu Trung Hoa, một khi theo đạo Công Giáo, không còn tự do đi lại
trong xứ, hoặc tìm được dễ dàng công ăn việc làm. Phần tôi, tôi xin giải thích
rằng, điều kiện để trở thành Kitô hữu là phải từ bỏ lầm lạc, chứ không phải cắt
bỏ tóc dài.
Suy tư của Cha Alexandre de Rhodes làm nổi bật ý tưởng và phương pháp tuyệt
diệu của một vị thừa sai khôn ngoan, biết phân biệt đâu là đòi buộc chính yếu
của Phúc Âm và đâu chỉ là lợi ích riêng tư của Âu Châu. Nhưng phải đợi mãi đến
40 năm sau, 1659, nghĩa là một năm trước khi từ trần, Cha Alexandre mới trông
thấy phương pháp truyền giáo của mình được Tòa Thánh chính thức công nhận.
Trong văn thư gửi các Giám Mục tiên khởi của Hội Thừa Sai Paris, Bộ Truyền Giáo
Các Dân Tộc viết:
- Đừng mất công thuyết phục các dân tộc Á
Châu phải từ bỏ các lễ nghi và tập tục của họ. Không gì ngu xuẩn cho bằng, muốn
biến đổi người Trung Hoa thành người của một quốc gia Châu Âu nào đó! Đừng tìm
cách đưa các tập tục của chúng ta vào xứ sở của họ, nhưng chỉ đưa vào đó Đức
Tin. Đức Tin không hề xua trừ cũng không làm tổn thương các nghi lễ cùng các
tập tục, miễn là các tập tục và nghi lễ này không quá xấu xa.
2. CHA ALEXANDRE DE RHODES - GIÁO SĨ
ĐẮC-LỘ - THỪA SAI TẠI VIỆT-NAM
Sau 6 năm giảng đạo tại Goa và Macao, vì thời cuộc biến chuyển, Bề Trên lại chỉ
định Cha Alexandre de Rhodes đi Việt Nam.
Đầu năm 1625, Cha Alexandre cùng với 4
Linh Mục dòng Tên và một tín hữu Nhật-Bản, cập bến Hội-An, gần Đà-Nẵng. Cha bắt
đầu học tiếng Việt và chọn tên Việt là Đắc-Lộ. Thầy dạy tiếng Việt cho Cha là
một thiếu niên trạc tuổi 10-12. Đây là một cậu bé thông minh. Cha Đắc-Lộ vô
cùng mộ mến khi nói về vị thầy tí hon:
- Chỉ trong vòng 3 tuần lễ, chú bé đã dạy
tôi học biết tất cả các cung giọng khác nhau của tiếng Việt và cách thức phát
âm của từng chữ. Cậu không hề có kiến thức gì về ngôn ngữ Châu Âu, thế mà, cũng
trong vòng 3 tuần lễ này, cậu có thể hiểu tất cả những gì tôi muốn diễn tả và
muốn nói với cậu. Đồng thời, cậu học đọc học viết tiếng La-tinh và có thể giúp
lễ. Tôi hết sức ngạc nhiên trước trí khôn minh mẫn và trí nhớ dẻo dai của cậu
bé. Sau đó, cậu trở thành Thầy Giảng giúp việc các Cha truyền giáo và là dụng
cụ tông đồ hữu hiệu trong việc loan báo Tin Mừng nơi quê hương Việt Nam thân
yêu của Thầy và nơi vương quốc Lào láng giềng.
Từ đó, Việt Nam trở thành quê hương thứ
hai của Cha Alexandre de Rhodes, tức giáo sĩ Đắc-Lộ. Tuy nhiên, duyên nợ của
Cha đối với quê hương Việt-Nam, không xuôi chảy và vẹn toàn. Cuộc đời truyền
giáo thật bấp bênh và vô cùng trôi nổi. Trong vòng 20 năm, Cha bị trục xuất đến
6 lần. Nhưng sau cả 6 lần ấy, Cha đều tìm cách trở lại Việt Nam khi cơ hội cho phép. Sau này,
khi vĩnh viễn từ biệt Việt Nam,
Cha đau đớn thú nhận:
- Trái tim tôi vẫn còn ở lại nơi đó!
Chính tình yêu đặc biệt Cha dành cho Việt
Nam
giải thích cho sự thành công của Cha, trong lãnh vực truyền đạo cũng như trong
lãnh vực ngôn ngữ, văn hóa.
Thời gian Cha Đắc-Lộ giảng Đạo tại Việt Nam cũng là
thời kỳ các Cha Thừa Sai dòng Tên hoạt động rất hăng say và hữu hiệu. Riêng Cha
Đắc-Lộ, Cha truyền Đạo từ Nam
ra Bắc. Cha kể lại công cuộc truyền giáo tại Bắc Phần:
- Khi chúng tôi vừa đến kinh đô Bắc Kỳ,
tức khắc nhà vua truyền lệnh cho tôi phải xây một nhà ở và một Nhà Thờ thật
đẹp. Dân chúng tuốn đến nghe tôi giảng Đạo đông đến nỗi, tôi phải giảng đến 4
hoặc 6 lần trong một ngày. Người chị vua và 17 người thân trong gia đình vua
xin lãnh nhận bí tích Rửa Tội. Nhiều tướng lãnh và binh sĩ cũng xin theo Đạo.
Nhưng điều làm tôi ngạc nhiên nhất là thấy các vị sư đã mau mắn từ bỏ bụt thần
để theo đạo Công Giáo. Tất cả đều dễ dàng chấp nhận khi tôi giải thích cho họ
hiểu giáo lý Công Giáo rất phù hợp với lý trí và lương tâm con người. Các tín
hữu Công Giáo Việt Nam
có Đức Tin vững chắc đến độ, không gì có thể rút Đức Tin ra khỏi lòng họ. Nhiều
người phải đi bộ suốt 15 ngày đường để được xưng tội hoặc tham dự Thánh Lễ..
Nhưng phải thành thật mà nói, tôi không thể chu toàn cách tốt đẹp mọi công tác
truyền Đạo này, nếu không có trợ giúp tuyệt vời của các Thầy Giảng. Vì nhận
thấy mình là Linh Mục duy nhất giữa một cánh đồng truyền Đạo bao la, nên tôi
chọn trong số các tín hữu, những thanh niên không lập gia đình và có lòng đạo
đức sâu xa cũng như có nhiệt tâm rao giảng Tin Mừng, để giúp tôi. Những người
này công khai thề hứa sẽ dâng hiến cuộc đời để phụng sự Chúa, phục vụ Giáo Hội,
sẽ không lập gia đình và sẽ vâng lời các Cha Thừa Sai đến Việt Nam truyền Đạo.
Hiện tại có tất cả 100 Thầy Giảng đang được thụ huấn trong Chủng Viện và được
các tín hữu trang trải mọi phí tổn.
Nhưng rồi, Cha Đắc-Lộ không được ở mãi
nơi quê hương Việt Nam Cha hằng yêu mến. Năm 1645, Cha bị Chúa Nguyễn vĩnh viễn
trục xuất khỏi Việt Nam.
Khi trở lại Âu Châu, Cha Đắc-Lộ vận dụng mọi khả năng hiểu biết về công cuộc
rao giảng Tin Mừng tại Á Châu, đã xin Tòa Thánh gửi các Giám Mục truyền giáo
đến Á Châu, để các ngài có thể truyền chức Linh Mục cho các Thầy Giảng bản xứ.
Có thể trong thời kỳ này, những bài giảng thuyết hùng hồn của Cha Đắc-Lộ nơi đất
Pháp đã gây chấn động mạnh trong tâm hồn các tín hữu Công Giáo Pháp và đã gợi
hứng cho việc thành lập Hội Thừa Sai Paris.
3. CHA ALEXANDRE DE RHODES
- GIÁO SĨ ĐẮC-LỘ - KHAI SINH CHỮ QUỐC NGỮ
Năm 1651, chữ Quốc Ngữ do Cha Alexandre
de Rhodes (giáo sĩ Đắc-Lộ) cưu mang, chính thức ra đời tại nhà in Vatican. Đó là
cuốn tự điển VIỆT-BỒ-LA.
Nhân dịp cử hành 300 năm ngày qua đời của Cha Đắc-Lộ, nguyệt san MISSI
(Magazine d'Information Spirituelle et de Solidarité Internationale) do các Cha
Dòng Tên người Pháp điều khiển, dành trọn số tháng 5 năm 1961 để tưởng niệm và
ca tụng Cha Đắc-Lộ, nhà truyền giáo vĩ đại của Giáo Hội Công Giáo Hoàn Vũ nói
chung và của Giáo Hội Công giáo Việt Nam nói riêng.
Cha Đắc-Lộ qua đời ngày 5-11-1660, tại
thành phố Ispahan, bên Ba-Tư, tức là sau
15 năm chính thức bị trục xuất khỏi Việt Nam.
Nguyệt san MISSI nói về công trình
khai sinh chữ quốc ngữ với tựa đề: ”Khi cho Việt-Nam các mẫu tự La-tinh, Cha
Alexandre de Rhodes đưa Việt-Nam đi trước đến 3 thế kỷ”. Tiếp đến, tờ MISSI
viết:
... Khi chính thức xác định mẫu tự, bằng
cách cho ra đời tại Roma nơi nhà in Vatican, quyển tự điển đầu tiên và các sách
đầu tiên bằng chữ quốc ngữ, Cha Alexandre de Rhodes đã giải phóng nước Việt
Nam.
... Thật vậy, giống như Nhật-Bản và
Triều-Tiên, người Việt-Nam luôn luôn sử dụng chữ viết của người Tàu và bị nô lệ
vì chữ viết này. Chỉ mới cách đây không lâu, người Triều-Tiên mới chế biến ra
chữ viết riêng của họ. Còn người Nhật thì, sau nhiều lần thử nghiệm, phải bó
tay và đành trở về với lối viết tượng hình biểu ý của người Tàu.
... Trong khi đó, người Tàu của
Mao-Trạch-Đông đang tìm cách dùng các mẫu tự La-tinh để chế biến ra chữ viết
của mình, nhưng cho đến nay vẫn chưa thành công. Vậy mà dân tộc Việt Nam, nhờ
công ơn Cha Alexnadre de Rhodes Đắc-Lộ, tiến bộ trước người Tàu đến 3 thế kỷ!
... Dĩ nhiên, không phải chỉ riêng Cha
Đắc-Lộ khởi xướng ra chữ quốc ngữ. Trước đó, các Cha Thừa Sai dòng Tên người
Bồ-Đào-Nha ở Macao
nghĩ ra một số phát âm tiếng Việt, viết bằng các mẫu tự La-tinh rồi. Tuy nhiên,
Cha Đắc-Lộ là người đưa công trình chế biến chữ quốc ngữ đến chỗ kết thúc vĩnh
viễn và thành công, ngay từ năm 1651, là năm cuốn tự điển VIỆT-BỒ-LA, chào đời.
Đây cũng là năm sinh chính thức của chữ Quốc Ngữ. Và cuộc khai sinh diễn ra tại
Roma, nơi nhà in Vatican.
Chính nơi nhà in Vatican mà Việt Nam nhận được chữ viết của mình.
... Đã từ lâu đời, người Việt Nam viết
bằng chữ Tàu, hoặc bằng chữ Nôm, do họ sáng chế ra. Nhưng đa số người Việt Nam
không thể đọc và viết được chữ Tàu, vì theo lời Cha Đắc-Lộ, Tàu có đến 80 ngàn
chữ viết khác nhau. Các nhà truyền giáo đầu tiên khi đến Việt Nam, bắt đầu dùng
mẫu tự La-tinh để viết lại âm giọng mà họ nghe được từ tiếng Việt. Khi Cha
Đắc-Lộ đến Việt Nam,
có một số phát âm tiếng Việt được viết bằng chữ La-tinh rồi. Vì thế, có thể nói
rằng, công trình sáng tạo ra chữ Quốc Ngữ trước tiên là công trình chung của
các nhà Thừa Sai tại Việt Nam.
Nhưng khi chính thức in ra công trình khảo cứu chữ viết tiếng Việt của mình, là
cùng lúc, Cha Đắc-Lộ khai sinh ra chữ viết này, ban đầu được các nhà truyền
giáo sử dụng, sau đó, được toàn thể dân Việt-Nam dùng và biến nó thành chữ Quốc
ngữ. Tất cả các nước thuộc miền Viễn Đông từ đó ước ao được có chữ viết cho
quốc gia mình y như chữ Quốc ngữ này vậy!
(Trên đây là phần trích dẫn từ nguyệt san
MISSI.)
Về phần Cha Đắc-Lộ, chính Cha viết về
ngôn ngữ của một dân tộc mà Cha rất mộ mến như sau:
- Khi tôi vừa đến Nam Kỳ và nghe người
dân bản xứ nói, đặc biệt là phụ nữ, tôi có cảm tưởng mình đang nghe chim hót
líu lo, và tôi đâm ra ngã lòng, vì nghĩ rằng, có lẽ không bao giờ mình học nói
được một ngôn ngữ như thế! Thêm vào đó, tôi thấy hai Cha Emmanuel Fernandez và
Buzomi, khi giảng, phải có người thông dịch lại. Chỉ có Cha François Pina là
hiểu và nói được tiếng Việt, nên các bài giảng của Cha Pina thường đem lại
nhiều lợi ích hơn là của hai Cha Fernandez và Buzomi. Do đó tôi tự ép buộc mình
phải dồn mọi khả năng để học cho được tiếng Việt. Mỗi ngày tôi chăm chỉ học
tiếng Việt y như ngày xưa tôi học môn thần học ở Roma. Và nhờ ơn Chúa giúp, chỉ
trong vòng 4 tháng, tôi học biết đủ tiếng Việt để có thể giải tội và sau 6
tháng, tôi có thể giảng được bằng tiếng Việt. Kết quả các bài giảng bằng tiếng
Việt lợi ích nhiều hơn các bài giảng phải có người thông dịch lại.
... Đức Chúa GIÊSU ngước mắt lên nhìn các
môn đệ và nói: ”Phúc cho anh em là những kẻ nghèo khó, vì Nước THIÊN CHÚA là
của anh em. Phúc cho anh em là những kẻ bây giờ đang phải đói, vì THIÊN CHÚA sẽ
cho anh em được no lòng. Phúc cho anh em là những kẻ bây giờ đang phải khóc, vì
anh em sẽ được vui cười. Phúc cho anh em khi vì Con Người mà bị người ta oán
ghét, khai trừ, sỉ vả và bị xóa tên như đồ xấu xa. Ngày đó, anh em hãy vui mừng
nhảy múa, vì này đây phần thưởng dành cho anh em ở trên Trời thật lớn lao. Bởi
lẽ các ngôn sứ cũng đã từng bị cha ông họ đối xử như thế .. Thầy nói với anh em
là những người đang nghe Thầy đây: Hãy yêu kẻ thù và làm ơn cho cho kẻ ghét anh
em. Hãy chúc lành cho kẻ nguyền rủa anh em và cầu nguyện cho kẻ vu khống anh
em. Ai vả anh em má bên này, thì hãy giơ cả má bên kia nữa. Ai đoạt áo ngoài
của anh em, thì cũng đừng cản nó lấy áo trong. Ai xin thì hãy cho, ai lấy cái
gì của anh em, thì đừng đòi lại. Anh em muốn người ta làm gì cho mình, thì cũng hãy làm cho người ta như vậy ..
Anh em hãy yêu kẻ thù, hãy làm ơn và cho vay mà chẳng hề hy vọng được đền trả.
Như vậy, phần thưởng dành cho anh em sẽ lớn lao, và anh em sẽ là con Đấng Tối
Cao, vì Người vẫn nhân hậu với cả phường vô ân và quân độc ác” (Luca
6,20-23/27-35).