BÀI ĐỌC 1 VÀ 2 (NẾU CÓ)
BÀI ĐỌC I : 2 Mcb 7, 1.20-23.27b-29
1 Hồi ấy, có bảy anh em bị bắt cùng với bà mẹ. Vua An-ti-ô-khô cho lấy roi và gân bò mà đánh họ, để bắt họ ăn thịt heo là thức ăn luật Mô-sê cấm.
20 Bà mẹ là người rất mực xứng đáng cho ta khâm phục và kính cẩn ghi nhớ. Bà thấy bảy người con trai phải chết nội trong có một ngày, thế mà bà vẫn can đảm chịu đựng nhờ niềm trông cậy bà đặt nơi Đức Chúa.21 Bà dùng tiếng mẹ đẻ mà khuyến khích từng người một, lòng bà đầy tâm tình cao thượng; lời lẽ của bà tuy là của một người phụ nữ, nhưng lại sôi sục một chí khí nam nhi; bà nói với các con:22 "Mẹ không rõ các con đã thành hình trong lòng mẹ thế nào. Không phải mẹ ban cho các con hơi thở và sự sống. Cũng không phải mẹ sắp đặt các phần cơ thể cho mỗi người trong các con.23 Chính Đấng Tạo Hoá càn khôn đã nắn đúc nên loài người, và đã sáng tạo nguồn gốc muôn loài. Chính Người do lòng thương xót, cũng sẽ trả lại cho các con hơi thở và sự sống, bởi vì bây giờ các con trọng Luật Lệ của Người hơn bản thân mình."
27b Bà nói với người con út : "Con ơi, con hãy thương mẹ: chín tháng cưu mang, ba năm bú mớm, mẹ đã nuôi nấng dạy dỗ con đến ngần này tuổi đầu.28 Mẹ xin con hãy nhìn xem trời đất và muôn loài trong đó, mà nhận biết rằng Thiên Chúa đã làm nên tất cả từ hư vô, và loài người cũng được tạo thành như vậy.29 Con đừng sợ tên đao phủ này; nhưng hãy tỏ ra xứng đáng với các anh con, mà chấp nhận cái chết, để đến ngày Chúa thương xót, Người sẽ trả con và các anh con cho mẹ."
ĐÁP CA : Tv 125
Đ. 5 Ai nghẹn ngào ra đi gieo giống,
mùa gặt mai sau khấp khởi mừng.
1 Khi Chúa dẫn tù nhân Xi-on trở về, ta tưởng mình như giữa giấc mơ. 2ab Vang vang ngoài miệng câu cười nói, rộn rã trên môi khúc nhạc mừng.
2cd Bấy giờ trong dân ngoại, người ta bàn tán: "Việc Chúa làm cho họ, vĩ đại thay! " 3 Việc Chúa làm cho ta, ôi vĩ đại! ta thấy mình chan chứa một niềm vui.
4 Lạy Chúa, xin dẫn tù nhân chúng con về, như mưa dẫn nước về suối cạn miền Nam.5 Ai nghẹn ngào ra đi gieo giống, mùa gặt mai sau khấp khởi mừng.
6 Họ ra đi, đi mà nức nở, mang hạt giống vãi gieo; lúc trở về, về reo hớn hở, vai nặng gánh lúa vàng.
BÀI ĐỌC 2 : Rm 8,31b-39
31b Thưa anh em, có Thiên Chúa bênh đỡ chúng ta, ai còn chống lại được chúng ta?32 Đến như chính Con Một, Thiên Chúa cũng chẳng tha, nhưng đã trao nộp vì hết thảy chúng ta. Một khi đã ban Người Con đó, lẽ nào Thiên Chúa lại chẳng rộng ban tất cả cho chúng ta?33 Ai sẽ buộc tội những người Thiên Chúa đã chọn? Chẳng lẽ Thiên Chúa, Đấng làm cho nên công chính?34 Ai sẽ kết án họ? Chẳng lẽ Đức Giê-su Ki-tô, Đấng đã chết, hơn nữa, đã sống lại, và đang ngự bên hữu Thiên Chúa mà chuyển cầu cho chúng ta?
35 Ai có thể tách chúng ta ra khỏi tình yêu của Đức Ki-tô? Phải chăng là gian truân, khốn khổ, đói rách, hiểm nguy, bắt bớ, gươm giáo?36 Như có lời chép: Chính vì Ngài mà mỗi ngày chúng con bị giết, bị coi như bầy cừu để sát sinh.
37 Nhưng trong mọi thử thách ấy, chúng ta toàn thắng nhờ Đấng đã yêu mến chúng ta.
38 Đúng thế, tôi tin chắc rằng: cho dầu là sự chết hay sự sống, thiên thần hay ma vương quỷ lực, hiện tại hay tương lai, hoặc bất cứ sức mạnh nào,39 trời cao hay vực thẳm hay bất cứ một loài thọ tạo nào khác, không có gì tách được chúng ta ra khỏi tình yêu của Thiên Chúa thể hiện nơi Đức Ki-tô Giê-su, Chúa chúng ta.
BÀI GIẢNG
CHỨNG NHÂN TIN MỪNG
Ngày khai sinh của Giáo Hội Việt Nam vinh dự không kém ngày Sinh Nhật của Giáo Hội Mẹ Roma, vì cả hai đều được sinh ra trong máu của người tin Chúa Giêsu suốt 300 năm. Ở Việt Nam, cuộc bách hại bắt đầu từ thế kỷ thứ 16, và khốc liệt nhất vào thế kỷ thứ 19.
Ngày 19/06/1988, Đức Gioan Phaolô II đã phong hiển thánh cho 117 vị, trong số 130.000 người Tử Đạo tại Việt Nam, gồm có :
8 Giám mục ; 50 Linh mục ; 14 thầy giảng ; 1 chủng sinh, 44 giáo dân. Trong đó có 10 vị người Pháp, 11 vị người Tân Ban Nha, còn lại 96 người Việt.
Các thánh trên đã Tử Đạo bởi 5 triều đại vua sau đây:
- Trịnh Nguyễn (1745-1773) : 4 vị.
- Cảnh Thịnh (1798) : 2 vị.
- Minh Mạng (1820-1840) : 50 vị.
- Thiệu Trị (1841-1847) : 3 vị.
- Tự Đức (1848-1883) : 58 vị.
Các ngài chịu đủ mọi cực hình :
- Bá đao (mỗi người bị cắt 100 miếng thịt) : 1 vị.
- Lăng trì (chặt chân tay trước khi chém đầu) : 4 vị.
- Thiêu sống : 6 vị.
- Chém đầu : 75 vị.
- Xử giảo (quấn dây vòng cổ rồi kéo hai đầu cho đến chết : 22 vị.
- Rũ tù : 9 vị.
- Người cao tuổi nhất như cha Loan 84 tuổi ; trẻ nhất như Tô-ma Thiện 18 tuổi. Trong số 117 vị Tử Đạo chỉ có một phụ nữ là bà A-nê Lê Thị Thành (thánh Đê.)
Các vị trên đủ mọi thành phần trong đạo-đời, quan có, lính có, dân có ; nhưng đa số là giáo sĩ trong Hội Thánh : Giám mục, Linh mục, chủng sinh. Số người trẻ từ 18 đến 40 tuổi chiếm 1/3 trong 117 vị Tử Đạo.
Ngày 15/10/1989, Hội Đồng Giám mục Việt Nam xin Tòa Thánh ghi vào lịch Phụng Vụ thế giới : ngày 24/11 là ngày kính các thánh Tử Đạo, nhằm kỷ niệm ngày thành lập Hội Đồng Giám Mục Việt Nam năm 1958, và được Bộ Phượng Tự chấp thuận ngày 14/02/1990, và đặc biệt được kính trọng thể vào Chúa nhật 33, áp Chúa nhật 34, lễ Chúa Kitô Vua, với hàm ý : 117 vị thánh Tử Đạo tại VN đã phần nào diễn tả chiến thắng của Chúa Giêsu là Vua vũ trụ.
VINH QUANG CỦA CÁC THÁNH TỬ ĐẠO Ở ĐIỂM NÀO?
Thực ra, tổ chức nào, tôn giáo nào cũng có những anh hùng, họ chẳng cần trông cậy vào ơn Chúa giúp. Đan cử
- Anh Nguyễn văn Trỗi, thuộc Đảng Cộng sản vô thần đã dám liều mạng ám sát Đại sứ Hoa Kỳ tại cầu Công Lý Saigon. Anh đã được Đảng Cộng sản VN tôn vinh là anh hùng dân tộc.
- Thượng tọa Thích Quảng Đức chỉ gõ mõ tụng Phật, ông tự thiêu để phản đối chính quyền Việt Nam Cộng Hòa, nên được Phật Giáo tôn vinh như Phật sống.
Nhưng đối với các thánh Tử Đạo, giá trị của các ngài hệ tại ở chỗ chấp nhận bị giết để minh chứng Chúa Giêsu là Đấng Cứu Độ duy nhất, và tin rằng :
I/ CHẾT VÌ CHÚA THÌ ĐƯỢC PHỤC SINH VINH QUANG. Niềm tin này đã được mạc khải trong sách Macabê : Bà mẹ động viên bảy người con đừng sợ những khổ hình do vua Antiokho ra lệnh dùng roi và gân bò đánh cho chết, nếu không ăn thịt heo! Bà nói : “Mẹ không rõ các con đã thành hình trong lòng mẹ thế nào. Không phải mẹ ban cho các con hơi thở và sự sống. Cũng không phải mẹ sắp đặt các phần cơ thể cho mỗi người trong các con.Chính Đấng Tạo Hoá càn khôn đã nắn đúc nên loài người, và đã sáng tạo nguồn gốc muôn loài. Chính Người do lòng thương xót, cũng sẽ trả lại cho các con hơi thở và sự sống, bởi vì bây giờ các con trọng Luật Lệ của Người hơn bản thân mình." (2Mcb7,1.20-23: Bài đọc I).
II/ ĐỨC GIÊSU LÀ CON MỘT THIÊN CHÚA CHA BAN TẶNG ĐỂ CỨU THẾ GIAN, vì ngoài Ngài không có thần thánh nào biến dữ ra lành để đem lại cho loài người sự sống hạnh phúc dồi dào như Thiên Chúa. Đó là cách Chúa biểu lộ tình thương của Ngài mà thánh Phaolô đã cảm nhận được: “Có Thiên Chúa bênh đỡ chúng ta, ai còn chống lại được chúng ta? Đến như chính Con Một, Thiên Chúa cũng chẳng tiếc, nhưng đã trao nộp vì hết thảy chúng ta. Một khi đã ban Người Con đó, lẽ nào Thiên Chúa lại chẳng rộng ban cho chúng ta tất cả làm một với Ngài? Ai sẽ buộc tội những người Thiên Chúa đã chọn? Chẳng lẽ Thiên Chúa, Đấng làm cho nên công chính ? Ai sẽ kết án họ? Chẳng lẽ Đức Giêsu Kitô, Đấng đã chết, hơn nữa đã sống lại và đang ngự bên hữu Thiên Chúa mà chuyển cầu cho chúng ta”.
Và ông Phaolô muốn mọi người hãy bắt chước ông để đáp lại tình yêu Thiên Chúa : “Ai có thể tách chúng ta ra khỏi tình yêu của Đức Ki-tô ? Phải chăng là gian truân, khốn khó, đói rách, hiểm nguy, bắt bớ, gươm giao? Nhưng trong mọi thử thách ấy, chúng ta toàn thắng nhờĐấng đã yêu mến chúng ta. Bởi thế không có gì tách được chúng ta ra khỏi tình yêu Thiên Chúa thể hiện nơi Đức Ki-tô Giê-su, Chúa chúng ta” (Rm 8,31b-39 : Bài đọc II).
III/ ĐỨC TIN, ĐỨC MẾN CỦA NGƯỜI CÔNG GIÁO PHẢI THỂ HIỆN BẰNG VIỆC LÀM. Đức Giê-su dạy : “Ai muốn theo tôi, phải từ bỏ chính mình, vác thập giá mình hằng ngày mà theo. Quả vậy, ai muốn cứu mạng sống mình, thì sẽ mất; còn ai liều mất mạng sống mình vì tôi, thì sẽ cứu được mạng sống ấy” (Lc 9,23-24 : Tin Mừng). Khi Đức Giêsu vác thánh giá chính là lúc Ngài dâng Lễ, nên Ngài dạy : “Ai muốn theo tôi, thì hãy vác thập giá của mình hằng ngày mà theo”, có nghĩa là hằng ngày ta phải đấu tranh với mọi nghịch cảnh để có điều kiện cùng được đồng hiến tế với Chúa Giêsu. Có thế mới cứu được mạng sống mình, và như vậy đi dự Lễ nếu phải trả giá đắt, đến nỗi mất mạng như các thánh Tử Đạo, thì càng bày tỏ lòng mến cao, chắc chắn được Chúa ban nhiều ơn hơn. Đấy mới thực là ý nghĩa và giá trị Chúa dạy ta phải vác thập giá mình mà theo Ngài mỗi ngày, chứ không phải là Ngài nhắm dạy ta : Phải chịu khó làm việc bổn phận để thu tích được nhiều tiền của! Nếu ta chỉ chú ý cần cù làm việc nhắm đạt thành công trong xã hội, đó chỉ là nhân bản, chẳng cần đến Chúa nào, vì đã có người vô thần dạy: “Tất cả cho sản xuất để được giàu mạnh”, và chứng minh “lao động là vinh quang”, nhưng thực tế vẫn thua kiếp trâu ngựa ! Trái lại người Công Giáo dựa trên Đức Tin, thì ai cũng phải xác tín rằng : Dù có cần cù chịu khó làm việc, đạt thành công đời này, mà không kết hợp với Chúa Giêsu Thánh Thể, thì bị Đức Giêsu mỉa mai : “Được lời cả thế gian mà mất sự sống mình thì nào có ích gì” (Lc 9,25 : Tin Mừng).
Ai kết hợp nên một với Chúa Giêsu Phục Sinh, thì sẽ được:
1- Chúa Giêsu Phục Sinh thanh tẩy tâm hồn ta và được Ngài nuôi dưỡng. Thánh Gioan đã nhìn thấy thị kiến về sự chiến thắng của những người đã chết để làm chứng cho Tin Mừng : “Một đoàn người đông vô kể thuộc mọi dân, mọi ngôn ngữ. Họ trải qua thử thách lớn lao, họ giặt và tẩy sạch áo mình trong Máu Con Chiên, không còn đói khát, không bị nắng thiêu đốt, chính Con Chiên dẫn họ tới nguồn nước trường sinh, họ mặc áo trắng, tay cầm cành lá thiên tuế tung hô : “Chính Chúa là Thiên Chúa chúng ta, xin chúc tụng vinh quang, sự khôn ngoan và lời tạ ơn, danh dự, uy quyền và sức mạnh đến muôn đời” (Kh 7,9-17).
2- Chúa Giêsu cộng tác trong mọi việc lành ta làm, có thế mới tôn vinh Thiên Chúa (x Rm 11,36). Bởi vì mọi việc con người làm ngoài Chúa Giêsu, trước sau sẽ ra tro bụi, nhưng nếu được làm trong Chúa Giêsu, thì việc ấy có giá trị cứu độ, và đem lại cho chúng ta sự sống vĩnh cửu không ai có thể cướp mất! (x Cv 5,38-39) Chính vì vậy mà Đức Giê-su khẳng định : “Ngoài Ta, các ngươi không thể làm được việc gì” (Ga 15,5b)
3- Chúa Giêsu ban cho chúng ta sức mạnh để đương đầu với nghịch cảnh hầu làm chứng cho Ngài, đến nỗi:
Vua Duy Tân hỏi các quan :
- Tay dơ lấy gì rửa?
- Thưa lấy nước rửa.
- Nước dơ lấy gì rửa?
Không ai đáp. Vua nói tiếp :
- Lấy máu rửa nước Việt Nam.
Nhưng đối với các thánh Tử Đạo, không vì lời ấy mà làm cho các ngài hoảng sợ đến chối bỏ Đức Tin, bởi vì :
- Kẻ nhút nhát thì sợ thần chết!
- Đứa tuyệt vọng thì tìm cái chết!
- Tên hưởng thụ thì chẳng nghĩ chết!
- Người anh hùng thì liều mạng chết!
- Đấng Khôn Ngoan thì chuẩn bị chết!
Chuẩn bị chết cụ thể là :
a. Bằng lòng mất hết lợi nhuận đời này, để nhận lại nhiều ơn hơn điều đã mất, như người mẹ động viên đứa con út trong bảy người con sắp lãnh án tử chỉ vì muốn trung thành với giáo lý của Chúa : “Con ơi, con hãy thương mẹ: chín tháng cưu mang, ba năm bú mớm, mẹ đã nuôi nấng dạy dỗ con đến ngần này tuổi đầu. Mẹ xin con hãy nhìn xem trời đất và muôn loài trong đó, mà nhận biết rằng Thiên Chúa đã làm nên tất cả từ hư vô, và loài người cũng được tạo thành như vậy. Con đừng sợ tên đao phủ này; nhưng hãy tỏ ra xứng đáng với các anh con, mà chấp nhận cái chết, để đến ngày Chúa thương xót,Người sẽ trả con và các anh con cho mẹ." (2Mcb 7,27-29 : Bài đọc I).
b. Bằng lòng mất mạng để giữ vững Đức Tin, vì sau này Chúa trả lại vẹn toàn thân xác bất tử, như Lời Đức Giêsu đã hứa với các môn đệ : “Ai từ bỏ mọi sự mà theo Ta sẽ được lãnh gấp trăm bây giờ ở đời này về nhà cửa, anh chị em, cha mẹ và con cái cùng ruộng vườn, làm một với cấm cách bắt bớ, và sự sống đời đời trong thời sau hết” (Mc 10,30).
c. Bằng lòng bị vu oan bất hiếu với cha mẹ trần thế để trọn tình hiếu thảo với Cha trên trời, tức là kiên trì bảo vệ Chân Lý. Đan cử : Vua Saolê đã hứa truyền ngôi cho con trai là Gionathan, thế nhưng Gionathan thấy vua cha tìm mưu tính kế thâm độc để diệt David, chỉ vì David được toàn dân tung hô : “David giết mười ngàn kẻ thù, Saolê giết một ngàn”, có nghĩa là ông mạnh gấp mười vua Saolê, để bảo vệ bình an cho dân tộc và giữ vững vương quyền Saolê, nên Gionathan tìm hết cách để David khỏi sa lưới thâm độc của vua cha. Ông sống như thế chắc chắn bị người đời kết án là bất hiếu. Vì “ăn cây nào rào cây đó”, và “một giọt máu đào hơn ao nước lã” (x 1Sm 20). Ông Gionathan sống như thế đã minh họa Lời Đức Giêsu nói : “Anh em đừng tưởng Thầy đến đem bình an cho trái đất; Thầy đến không phải để đem bình an, nhưng để đem gươm giáo.Quả vậy, Thầy đến để gây chia rẽ giữa con trai với cha, giữa con gái với mẹ, giữa con dâu với mẹ chồng. Kẻ thù của mình chính là người nhà” (Mt 10,34-36).
Để minh chứng nhờ Chúa Giêsu ban nghị lực cho những ai tuyên xưng Ngài mà bị bách hại, thánh Phaolô Lê Bảo Tịnh, đã viết thư gởi các chủng sinh thuộc Chủng Viện Kẻ Vĩnh :
“Tôi là Phaolô, đang bị xiềng xích vì Đức Kitô. Tôi muốn nói cho anh em biết những gian truân tôi đang chịu hằng ngày, để anh em được cháy lửa yêu mến Chúa mà hợp với tôi dâng lời ca ngợi Thiên Chúa : Chúa yêu thương ta đến muôn đời.
Ngục thất này quả là một hình ảnh sống động của hỏa ngục đời đời : ngoài gông cùm, xiềng xích, dây thừng, lại còn thêm sự nóng giận, oán thù, nguyền rủa, những lời tục tĩu, những sự gây gổ, những hành vi xấu xa, những lời thề gian, nói hành, và cả nỗi chán nản, buồn phiền, cả ruồi muỗi rận rệp.
Nhưng Đấng đã giải thoát ba người thanh niên bị ngọn lửa bừng bừng vẫn luôn ở cùng tôi ; Người cũng giải thoát tôi khỏi những sự khốn khó này bằng cách làm cho trở nên ngọt ngào : Chúa yêu thương ta đến muôn đời.
Những cực hình này thường làm cho người khác buồn sầu, nhưng nhờ ơn Chúa giúp, tôi vẫn đầy vui sướng hân hoan, bởi vì tôi không chỉ có một mình, nhưng có Đức Kitô ở cùng tôi. Người là Thầy của chúng ta, Người mang tất cả sự nặng nề của thập giá, chỉ để cho tôi vác phần nhẹ nhất. Người không chỉ nhìn tôi chiến đấu, mà chính Người đang chiến đấu và chiến thắng. Vì thế, triều thiên vinh quang đã được đặt trên đầu Người, nhưng chi thể cũng được hân hoan vì vinh quang của Đầu”.
Ông Pascal nói : “Vũ trụ có khả năng đè bẹp tôi, nhưng tôi vẫn hơn vũ trụ, vì vũ trụ không biết gì về chiến thắng của nó, còn tôi, tôi biết về sự chết của mình”. Cũng thế, các bạo chúa xem ra thắng được các thánh Tử Đạo, nhưng tâm hồn chúng mất bình an. Vì “kẻ ác luôn luôn chạy trốn, dù không ai đuổi bắt!” (Cn 28,1a). Trái lại các thánh Tử Đạo biết mình chiến thắng vì Đức Giêsu đã nói : “Phúc thay anh em khi vì Thầy mà bị người ta sỉ vả, bách hại và vu khống đủ điều xấu xa. Anh em hãy vui mừng hớn hở, vì phần thưởng dành cho anh em ở trên trời thật lớn lao” (Mt 5,11-12a). Quả thật, “phúc thay ai bị bách hại vì sự công chính, vì Nước Trời là của họ” (Mt 5,10 : Tung Hô Tin Mừng). Đúng là “ai nghẹn ngào ra đi gieo giống, mùa gặt mai sau khấp khởi mừng” Tv 126/125,5 : Đáp ca). Chiến thắng vinh quang này tác giả sách Khôn ngoan đã cho biết : “Nhìn thấy các vị Tử Đạo chịu khổ hình như thế, bọn ngu si coi họ như đã chết, cho là gặp tai họa, bị tiêu diệt, nhưng thực ra họ đang hưởng bình an, chứa chan hy vọng, trường sinh bất tử. Sau khi chịu sửa dạy đôi chút, họ được hưởng ân huệ lớn lao, họ rực sáng như tia lửa bén nhanh khắp rừng sậy, họ có quyền xét xử muôn dân, thống trị muôn nước. Vì Chúa là Vua của họ.” (Kn 3,2-8a).
THUỘC LÒNG
Ông Tertuliano nói : “Máu các thánh Tử Đạo là hạt giống phát sinh các Kitô hữu”. Vì “người ta càng áp bức dân Chúa, thì dân Chúa càng thêm đông đảo bành trướng ra, khiến thiên hạ phải run khiếp” (Xh 1,12).
ĐỌC THÊM :
TRÍCH BÀI GIẢNG CỦA ĐỨC THÁNH CHA GIOAN PHAOLÔ II
TRONG ĐẠI LỄ TÔN VINH HIỂN THÁNH 117 VỊ CHÂN PHƯỚC TỬ ĐẠO VIỆT NAM
TẠI RÔMA NGÀY 19/06/1988
“Lên tiếng với anh em để hô vang Chúa Ki-tô Tử nạn Thập Giá, tất cả chúng tôi hôm nay để lời cám ơn anh em vì tấm gương nhân chứng đặc biệt các vị thánh Tử Đạo của Giáo Hội Việt Nam anh em đã nêu cao, bất cứ các ngài là con dân Việt Nam hay là những Thừa sai, xuất xứ từ những nước đã in sâu mầm mống đức tin Chúa Ki-tô.
Làm sao kể lại cho hết ? Tất cả là 117 vị Tử Đạo, trong số có 8 vị Giám mục, 50 vị Linh mục, 59 giáo dân, trong số đó có một phụ nữ là thánh A-nê Lê Thị Thành, mẹ của sáu người con.
Truyền thống còn ghi nhớ lịch sử chết vì đạo của Giáo Hội Việt Nam rất bao quát, phức tạp ngay từ lúc ban đầu. Từ năm 1533, nghĩa là từ lúc miền Đông Nam Á Châu vừa được truyền đạo, Giáo Hội Việt Nam đã chịu bách hại suốt ba thế kỷ, trừ một vài năm cách quãng, giống hệt ba thế kỷ bắt bớ của Giáo Hội Âu Châu thời xưa. Từng ngàn vạn giáo dân tử đạo, từng trăm số người đã chết lưu lạc trên núi, trong rừng sâu nước độc !
Để lấy một ví dụ : Trong các vị Tử Đạo hôm nay, đi tiên phong có thánh Vinh-sơn Liêm, dòng Đa-minh là người Việt tử đạo đầu tiên năm 1773. rồi tới Linh mục An-rê Dũng Lạc, sinh trưởng trong một gia đình rất nghèo khó, bên lương, từ nhỏ đã phải “bán” cho một thầy giảng dạy giáo lý, nhưng rồi Chúa cũng cho tới chức Linh mục năm 1823, được bổ nhiệm chánh xứ và đương nhiên thành nhà truyền giáo trong nhiều địa hạt.
Nhiều lần đã bị lao tù, nhưng vẫn được giáo dân tốt lành đem tiền chuộc về, trong khi bản thân ngài mong chờ được chết vì Chúa. “Những người chết vì đức tin, ngài nói – thì lên Thiên đàng thẳng rẵng ; tại sao chúng ta cứ phải ẩn náu, phải tốn tiền đút lót cho quan quyền ; thà để cho chúng tôi bị bắt và rồi tử đạo cho phải hơn không ?” Thực ra vẫn một ý chí hăng say và được ơn Chúa nâng đỡ, ngài đã anh dũng chịu trảm quyết tại Hà Nội ngày 21/12/1839.
Một lần nữa, hỡi Giáo đoàn Việt Nam, chúng tôi nói lại cho anh em rằng : máu các thánh Tử Đạo là nguồn ân sủng cho anh em trước tiên, để anh em thăng tiến trong đức tin. Giữa anh em, đức tin của tổ tiên vẫn tiếp tục và còn truyền tụng sang nhiều thế hệ tương lai.
Đức tin này tồn tại để làm nền tảng xây dựng sự kiên trì cho tất cả những người là Việt Nam thuần túy sẽ trung thành với quê hương đất nước, nhưng đồng thời vẫn còn là người tín hữu của Chúa Kitô.
Ai là người tín hữu đều ý thức rằng : Lời kêu gọi của Phúc Âm vẫn là phải tuân phục các thể chế loài người, để tôn thờ tình yêu Thiên Chúa bằng cách làm việc thiện, sống xứng đáng con người tự do, kiêng nể tha nhân, yêu thương anh em, kính sợ Thiên Chúa và tôn trọng công quyền và thể chế quốc gia. (x 1Pr 2,13-17)
Do đó công ích của quốc gia vẫn là thời điểm người công dân phải dấn thân, nhưng đồng thời phải được tự do tuyên xưng chân lý của Chúa, được cảm thông với các vị chủ chăn và anh em đồng tín ngưỡng : và như thế là để sống an bình với mọi người và thực tâm xây dựng hạnh phúc cho toàn dân.”
(Trích Thiên Hùng Sử tr 20-25)
http://phaolomoi.net
LM GIUSE ĐINH QUANG THỊNH