BÀI GIẢNG
ĐỨC GIÊSU
DẠY CẦU NGUYỆN
Đức Giêsu dạy chúng ta cầu
nguyện xem ra nghịch với khát vọng mọi người. Vì hầu hết người ta đến với Chúa
chỉ mong được Ngài đáp cứu những nhu cầu họ đang cần, chứ hiếm có ai cầu nguyện
mà quan tâm đến việc làm vinh danh Chúa! Thế mà Đức Giêsu lại ưu tiên dạy cầu
nguyện : “Xin làm cho Danh Thánh Cha vinh
hiển“ (x Mt 6,9-10 : Tin Mừng). Sau đó Ngài mới dạy xin cho nhu cầu của
“chúng con” (x Mt 6,11-13 : Tin Mừng). Vì “chúng con” nhờ được tái sinh trong
Bí tích Thánh Tẩy, đã trở nên Hiền Thê của Đức Giêsu Kitô (x 2 Cr 11,2 : Bài
đọc năm lẻ). Mà trong đời sống vợ chồng, mỗi người chỉ có thể bày tỏ tình yêu
của mình qua ý hướng : nói gì, làm gì, ưu tiên dành cho người bạn trăm năm được
vinh dự nhất. Muốn thế phải thực hành Lời Chúa, chứ không thể bắt chước bà Eva
nghe quỷ xúi giục làm theo ý nó, rồi bà lại xúi Adam chồng mình cũng làm theo.
Thế là họ cùng nhau gạt bỏ Lệnh Chúa truyền, hậu quả là làm cho cả dòng giống
nhào xuống hố tử thần (x St 3). Do đó thánh Phaolô nói : “Tôi sợ rằng như xưa con rắn đã dùng mưu chước mà lừa dối Eva thế nào,
thì nay chính lòng anh em cũng dần dần đâm ra hư hỏng, mất sự đơn sơ đối với
Đức Kitô như vậy” (2Cr 11,3). Bởi vì “người
ta sống không chỉ nhờ cơm bánh, nhưng còn nhờ mọi Lời miệng Thiên Chúa phán ra”
(Mt 4,4b).
Để hiểu nội dung lời cầu
nguyện mà Đức Giêsu dạy trong Kinh Lạy Cha, ta hãy tìm hiểu từng điều Ngài dạy
:
A. TRƯỚC NHẤT PHẢI ƯU TIÊN
CẦU NGUYỆN : XIN CHO DANH CHÚA HIỂN VINH.
“Lạy”: Động từ này được đặt ở đầu lời cầu nguyện, để
khẳng định người ta chỉ thờ phượng một
Thiên Chúa mà thôi, vì Ngài là Cha, Đấng thấu suốt mọi sự.
* “Cha”: Là tiếng con trẻ bắt đầu
trong đời bập bẹ với người nuôi dưỡng. Thời gian này, nó cứ bám chặt lấy người chăm
sóc nó. Thánh Phaolô xác tín với các tín hữu : “Anh em đã nhận được Thần Khí
làm cho nên nghĩa tử, nhờ đó chúng ta được kêu lên rằng “Abba! Cha ơi!” (Rm 8,15bc : Tung Hô Tin Mừng). Nghĩa
là chính Thánh Thần làm cho ta bám chặt vào Thiên Chúa là Cha như thể trẻ thơ
không thể rời xa cha mẹ!
* “Chúng
con”:
Người Do Thái tự hào Thiên Chúa chỉ nhận dân tộc họ là con, nên chỉ có dân này
được phúc gọi Thiên Chúa là Cha, còn dân ngoại được Chúa coi như loài chó mà
thôi (x Mt 15,26). Trong kinh Lạy Cha, Đức Giêsu mở rộng liên hệ Ngài với loài
người, cũng như xác định rõ và đầy đủ hơn: Thiên Chúa là Cha thật của mọi loại
người trong Hội Thánh. Bao lâu cả loài người trở thành người Công Giáo chân
chính, thì bấy giờ ai cũng nhìn nhận nhau là anh em con một Cha trên trời, một
Thầy dạy duy nhất là Đức Giêsu Kitô (x Mt 23,8-10). Lúc ấy chắc chắn có hòa
bình thực sự trên trái đất, thế giới này là Thiên Đàng.
* “Đấng ngự
trên trời”: Là Thiên Chúa toàn năng, cao cả trổi vượt trên triều đình thần thánh,
Ngài là Chúa muôn loài, Ngài thấu suốt lòng dạ mọi người.
* “Danh
thánh Cha”: Thánh là tách biệt, khác lối sống phàm nhân không thuộc về Chúa, như
Đức Giêsu thưa với Chúa Cha về các môn đệ : “Con đã ban cho chúng Lời của Cha và thế gian đã ghét chúng,vì chúng
không thuộc về thế gian, cũng như Con không thuộc về thế gian” (Ga 17,14).
Đối với Thiên Chúa, Danh Ngài là Thánh, nghĩa là Danh Cha trên trời khác và hơn
hết muôn loài hữu hình và vô hình, Danh Chúa diễn tả bản tính của Ngài :
· Tự Hữu : không bởi đâu sinh
ra.
· Hằng Có : trường tồn, không khởi sự, không tận
cùng.
· Toàn Năng : biến dữ ra lành, biến tội ra ơn,
chết ra sống.
· Thấu suốt mọi sự : ngay cả
các điều thâm sâu trong lòng người, dù chưa tỏ lộ.
· Khôn ngoan : mọi đường lối
của Chúa đều ngay thẳng, hoàn hảo hết ý.
· Chân lý : ngoài Thiên Chúa
không có sự thật.
· Thánh thiện : không vết tỳ
ố.
· Sự sống : mọi vật có sự sống đều do Thiên Chúa
ban cho.
· Tình yêu : Ngài là Tình
Yêu, vô vị lợi, luôn ban điều thiện hảo mà không nhận lại điều gì
*“Hiển
vinh”:
Hiển là lộ ra khi loài người nhận biết phạm trù Danh Thánh Cha như trên. Càng
nhiều người nhận biết Danh Thánh Cha, thì Cha càng lộ ra vinh hiển. Nhưng vì
Chúa yêu thương loài người, Ngài muốn lệ thuộc vào ta khi ta trở nên Tông Đồ
của Đức Kitô (x Ga.15,8). Thánh Irênê nói : “Vinh quang Thiên Chúa là cộng lại những người được Chúa Giêsu cứu độ”.
* “Triều
đại Cha mau đến”: Một cộng đoàn dân tộc đi lên hay đi xuống, tùy thuộc vào triều đại
(hay chính thể) của dân tộc ấy. Ví dụ dân tộc Việt Nam, dưới triều đại vua Quang Trung
khác triều đại Hồ Chí Minh : người dân được vươn lên tự do hạnh phúc hay sống
cảnh sợ hãi, mất hết quyền mà không ai dám mở miệng. Do đó dân tộc Việt Nam có trải
nghiệm về sự khác biệt giữa các triều đại. Vậy “triều đại Cha mau đến”, để khẳng định rằng: Hội Thánh Công Giáo
được sinh ra từ cạnh sườn Đức Giêsu bị đâm trên thập giá, đó chính là Nước
Thiên Chúa khai diễn cho con người được cứu độ. Bởi đó Chúa muốn mọi dân mọi
nước mau trở thành dân Ngài trong Hội Thánh Công Giáo, là đoàn chiên của Mục Tử
Giêsu nhân lành, chỉ có Mục Tử Giêsu mới cho đoàn chiên sự sống dồi dào như
Thiên Chúa và được gìn giữ chở che, không sự dữ nào cướp khỏi tay quyền năng và
yêu thương của Thiên Chúa được (x Ga 10,27-30).
* “Ý Cha
thể hiện dưới đất cũng như trên trời”: Hy vọng vào Nước Trời mai sau được hạnh
phúc như thế nào, thì hãy thể hiện niềm tin ấy trong cuộc sống hôm nay. Cụ thể,Thánh
Lễ là thực tại phúc lộc trên trời được thể hiện trên trái đất. Do đó ta đi dự
Lễ là được tiên thường dự tiệc Nước Thiên Chúa. Nói cách khác, Nước Trời khởi
đi từ cuộc sống trần thế mỗi khi Hội Thánh dâng Lễ, và viên mãn trong ngày cánh
chung.
B. PHẦN THỨ HAI ĐỨC GIÊSU
DẠY : XIN CHO NHU CẦU CỦA CON NGƯỜI.
* “Lương
thực hằng ngày”: Chúa muốn mọi người được sống đời đời, nhờ Chúa ban năm lương thực :
1. Sống nhờ Đức Tin (x Rm.1,17).
2. Sống nhờ thi hành Lời Chúa (x Mt.4,4 ; Ga 4,34).
3. Sống nhờ Thánh Thể (x Ga.6,35).
4. Sống nhờ Đức Mến thể hiện bằng tấm lòng sám hối tội mình và được kết
hợp với Chúa Giêsu (x Lc 23,43).
5. Sống nhờ của cải vật chất không thừa, không thiếu (x
Cn.30,8-9).
Năm
nguồn sống này đã được diễn tả qua năm chiếc bánh Đức Giêsu dùng để nuôi trên
năm ngàn người ăn no mà vẫn còn dư (x Mt 14,13-21).
* “Xin tha
tội chúng con, như con tha cho kẻ có lỗi với con”: Ta xúc phạm đến Chúa là
tội nặng nề hơn đồng loại xúc phạm đến ta. Đồng loại xúc phạm đến ta chỉ là
lỗi. Ta có tha thứ lỗi cho đồng loại cũng chẳng đáng giá gì so với Chúa tha tội
cho ta. Chân lý này đã diễn tả qua dụ ngôn người tôi tớ mắc nợ vua mười ngàn
nén vàng, tương đương với 60 triệu ngày công, vì tiền công nhật được quy là một
quan (x Mt 20,2). Nếu làm tối đa một năm 300 ngày, thì phải mất 200 ngàn năm
ngày công, đã được vua tha bổng. Khi ra về anh gặp bạn chỉ nợ có 100 quan,
tương đương với 100 ngày công (hơn ba tháng), anh bạn này không xin tha mà chỉ
xin khất, thế mà kẻ được vua tha nợ lại tóm lấy bạn tống vào ngục! Vua nghe
được cho gọi tên nợ lại và tống giam, vì hắn đã được vua tha cho một số nợ
khổng lồ, trong khi đó hắn lại không cho bạn khất một số nợ chẳng đáng là bao!
(x Mt 18,23-35 - theo Chú Giải của TOB). Đúng là “Chúa là Đấng từ bi nhân hậu, Người chậm giận và giàu tình thương”
(Tv 103/102,8). Vì lý do này mà trước khi hối nhân vào tòa Giải Tội và trước
lúc rước Lễ, Hội Thánh đòi buộc phải đọc kinh Lạy Cha.
* “Đừng để
chúng con sa chước cám dỗ”: Đừng để chúng con là người Công Giáo được đón
nhận Lời Chúa và Thánh Thể mà lại ra tồi tệ hơn. Bởi thế trong Thánh Lễ, trước
khi chủ tế rước Chúa thì, phải cúi mình đọc thầm : “Lạy Chúa Giêsu Kitô,Con Thiên Chúa hằng sống, bởi thánh ý Chúa Cha và
nhờ sự hợp tác của Chúa Thánh Thần,Chúa đã chết để ban cho thế gian được sống,
xin dùng Mình và Máu Thánh Chúa đây cứu con khỏi mọi tội lỗi và mọi sự dữ, xin
cho con hằng tuân giữ Giới Răn Chúa và đừng để con lìa xa Chúa bao giờ”.
Kìa ma qủy đã dùng Lời Chúa mà cám dỗ Đức Giêsu phạm tội nghịch với ý Chúa Cha.
Nhưng Đức Giêsu đã được Thánh Thần hướng dẫn dùng Lời Chúa đánh gục Satan trong
cả ba lần chúng cám dỗ Ngài, thì ta cũng xin Chúa ban Thánh Thần hướng dẫn ta
biết sống Lời Chúa,như Lời Ngài dạy: “Chúa
sẽ ban Thánh Thần cho những ai kêu xin Người” (x Mt.4,1–11 ; Lc 11,13). Vì
qua Bí tích Thánh Tẩy chúng ta đã được tái sinh để thuộc về dòng giống Thiên
Chúa, không còn là dòng giống của Adam, Eva, một dòng giống bị Satan hướng dẫn
chống lại lệnh Chúa, khác hẳn Đức Giêsu tấn công Satan bằng Lời Chúa (x St 3 so
với Mt 4).
* “Xin cứu
chúng con khỏi sự dữ”: Vì Thiên Chúa là Cha toàn năng,
giàu lòng thương xót, chỉ có Ngài biến dữ ra lành, biến tội ra ơn, biến chết ra
sống cho ai biết sám hối tội mình xin
Chúa xót thương và xin được theo Ngài (x Ep 2,4 ; Lc 23,39-43).
Để việc cầu nguyện sinh
hiệu quả,ta cần lưu ý về cách thức cầu nguyện, Hội Thánh dạy ta : “Việc cầu nguyện phải đi đôi với việc đọc
Thánh Kinh, để có sự đối thoại giữa Thiên Chúa và con người, vì chúng ta ngỏ
lời với Chúa khi cầu nguyện và chúng ta nghe Ngài lúc chúng ta đọc Thánh Kinh”
(Hiến Chế Mạc Khải số 25). Nhưng phải đọc Thánh Kinh trong Hội Thánh (x Hiến
Chế Phụng Vụ số 7), phải hiểu cách cụ thể là chu toàn giờ kinh Phụng Vụ đặc
biệt là hiệp dâng Thánh Lễ. Bởi vì khi ta cầu nguyện trong Phụng Vụ là được
cùng với Hội Thánh dùng Lời Chúa chuyện vãn với Ngài để được “Thánh Thần lựa ý Thiên Chúa mà chuyển cầu
cho chúng ta” (Rm 8,26)
Thánh Phaolô muốn nhấn mạnh cho chúng ta thêm lòng tin
vào Lời Chúa khi ta đọc Thánh Kinh : “Anh
em chịu lấy Lời Thiên Chúa nghe tự chúng tôi, anh em đã đón nhận lấy không phải
như lời của những người phàm - mà đích thực là thế - nhưng là Lời Thiên Chúa và
Lời ấy đang thi thố quyền năng nơi anh em là những kẻ tin” (1Tx 2,13).
Thánh Tông Đồ xác tín như thế vì ngài dựa vào lời ngôn sứ Isaia : “Lời Chúa thấm vào lòng người phát sinh sự
sống, khách quan và hiệu quả hơn nước mưa thấm vào lòng đất nảy sinh cây cối và
côn trùng” (x Is 55,10-11). Thậm chí tảng đá không thấm nước, nhưng nếu
nước cứ đổ xuống dầm dìa nhiều ngày, thì sự sống tối thiểu cũng xuất hiện,đó là
rêu xanh! Thế thì Lời Chúa nếu thấm vào lòng người, dù chai đá đến đâu,chắc
chắn cũng được biến đổi và sinh sự sống
mới.
Sau khi chúng ta đã tìm hiểu kinh Lạy Cha, cho ta xác tín
: Cầu nguyện như Đức Giêsu dạy là cộng tác với Ngài để cùng thực hiện chương
trình cứu độ loài người Chúa Cha trao phó. Chân Lý này dựa vào Hc 48, 1-14
(Bài đọc năm chẵn), minh chứng ngôn sứ Êlya thể hiện ý Chúa, báo trước Đức
Giêsu thực hiện chương trình cứu độ loài người:
- Ông là vị ngôn sứ chẳng khác nào ngọn lửa, lời của ông
tựa đuốc cháy bừng bừng (Hc 48,1).
+ Đức Giêsu nói : “Tôi
đã ném lửa vào trần gian và nào tôi hằng mong ước, nếu nó đã được nhen lên”
(Lc 12,49)
- Ông Êlya dùng Lời của Đấng Tối Cao mà làm cho một người
chết sống lại, thoát khỏi tay tử thần và cõi âm ty (Hc 48,5).
+ Đức Giêsu làm cho ba người chết sống lại : con gái ông
Giairô (Mc 5,35t) ; con trai bà góa thành Naim (Lc 7,11t) ; Lazaro, em Matta và
Maria (Ga 11).
- Ông Êlya đã đẩy các vua vào cõi chết và xô người quyền
thế xuống khỏi giường (Hc 48,6).
+ Đức Maria ca tụng Thiên Chúa lúc sai Con Ngài vào đời :
“Chúa hạ kẻ quyền năng khỏi ngôi báu, và
suy tôn những người khiêm nhường” (Lc 1,52).
- Tại núi Sinai, ông đã
nghe lời khiển trách. Tại núi Khôrếp, ông Êlya đã nghe án trừng phạt (Hc 48,7).
+ Tại núi Sọ, Đức Giêsu nghe mọi người nguyền rủa (Mt
27,39t).
- Ông Êlya đã xức dầu tấn phong cho các vua chúa để họ
cầm quyền xét xử (Hc 48,8a).
+ Đức Giêsu trao quyền lãnh đạo Hội Thánh cho ông Phêrô
(Mt 16,18 ; Ga 21,15t).
- Ông Êlya xức dầu cho các ngôn sứ để họ tiếp nối sứ mệnh
của ông (Hc 48,8b).
+ Đức Giêsu truyền cho các Tông Đồ nối tiếp sứ mệnh của
Ngài là đi tập họp môn đệ cho Ngài bằng cách ban Thánh Tẩy và dạy những điều
Đức Giêsu đã truyền (Mt 28,19-20).
- Ông Êlya được rước lên Trời giữa đám lửa cháy như cơn
lốc (Hc 48,9).
+ Đức Giêsu được rước lên Trời có đám mây quyện lấy Ngài
(Cv 1,9-12).
- Ông Êlya làm nguôi cơn giận của Thiên Chúa trước khi
cơn thịnh nộ bừng lên, để đưa tâm hồn cha ông trở lại với con cháu, và tái lập
các chi họ Giacob (Hc 48,10).
+ Đức Giêsu khi bị treo trên thập giá, Ngài đã cầu nguyện
cho kẻ hại Ngài, làm nguôi cơn giận của Cha, hầu lôi kéo mọi người lên cùng Cha
(Lc 23,34 ; Ga 12,32).
- Phúc cho ai được nhìn thấy ông Êlya và cho kẻ được an
nghỉ trong tình yêu Thiên Chúa (Hc 48,11).
+ Ông Simeon và bà Anna được diễm phúc nhận ra Hài Nhi
Giêsu là Đấng Cứu Thế, ông Simeon bồng Hài Nhi và ước mong được về với Chúa
trong bình an (Lc 2,25-40).
- Sau khi ông Êlya được rước lên Trời, thì ông Êlysa được
đầy Thần Khí của thầy (Hc 48,12a).
+ Đức Giêsu khi về Trời, Ngài hứa sẽ cho những ai tin
theo Ngài làm được những việc như Ngài và còn hơn Ngài (Ga 14,12).
- Ông Êlysa môn đệ của ngôn sứ Êlya được lòng tin mạnh
mẽ, không thủ lãnh nào ở thế gian có thể lung lạc được ông, cũng không ai khuất
phục được ông (Hc 48,12b).
+ Đức Giêsu cầu nguyện riêng cho ông Phêrô, để ông khỏi mất
Đức Tin, vì ông có nhiệm vụ củng cố Đức Tin anh em (Lc 22,31-32).
- Chẳng có điều gì quá sức ông Êlysa, ngay cả khi ông đã
qua đời, thân xác ông vẫn còn giữ năng lực của một ngôn sứ (Hc 48,13).
+ Các môn đệ Đức Giêsu có sức mạnh đến nỗi không có gì các
ông không làm được. Cụ thể dù bị cấm cách bắt bớ, các ông càng hăng say (Cv 4).
Vậy đời sống ngôn sứ Êlya tiên báo về đời sống Đức Giêsu
trên, cũng tiên báo cho hết thảy những ai biết cầu nguyện với Chúa trong kinh
Lạy Cha, để được cộng tác với Chúa Giêsu làm hoàn tất chương trình cứu độ loài
người, đúng với lời kinh ta đọc: “Lạy
Chúa,những công trình tay Chúa thực hiện,quả là chân thật và công minh” (Tv
111/110,7a : ĐC năm lẻ), để quy tụ muôn dân đến “trước nhan thánh Chúa, người
công chính hãy vui mừng”(Tv 97/96,12a : ĐC năm chẵn).
THUỘC LÒNG
Lương thực cần
dùng nuôi sống con người nhờ 5 tấm bánh :
1. Sống nhờ Đức Tin (x Rm.1,17).
2. Sống nhờ nghe và thi hành Lời Chúa (x Mt.4,4 ; Ga
4,34).
3. Sống nhờ Thánh Thể (x Ga.6,35).
4. Sống nhờ sám hối tội mình và xin theo Chúa (x Lc
23,43).
5. Sống nhờ của cải vật chất không thừa, không thiếu (x
Cn.30,8-9).
http://phaolomoi.net
Lm GIUSE ĐINH QUANG THỊNH