BÀI ĐỌC 1 VÀ 2 (NẾU CÓ)
BÀI
ĐỌC : Cv 5, 17-21
17 Bấy giờ, vị thượng tế cùng tất cả những
người theo ông -tức là phái Xa-đốc- ra tay hành động. Đầy lòng ghen tức,18
họ bắt các Tông Đồ, nhốt vào nhà tù công cộng.
19 Nhưng ban đêm thiên sứ
của Đức Chúa mở cửa ngục, đưa các ông ra mà nói:20 "Các ông hãy
đi, vào đứng trong Đền Thờ mà nói cho dân những lời ban sự sống."21
Nghe thế, các ông vào Đền Thờ ngay từ lúc rạng đông và bắt đầu giảng dạy.
22 Nhưng khi thuộc hạ đến, họ không thấy
các ông trong ngục. Họ trở về báo cáo23 rằng: "Chúng tôi thấy
ngục đóng kỹ lưỡng và những người lính canh đứng ở cửa; nhưng khi mở cửa ra,
chúng tôi không thấy ai ở bên trong."24 Nghe những lời ấy, viên
lãnh binh Đền Thờ và các thượng tế phân vân về các ông, không biết chuyện gì
xảy ra.25 Bấy giờ có một người đến báo cáo cho họ: "Những người
các ông đã tống ngục, kìa họ đang đứng trong Đền Thờ và giảng dạy cho dân!
"26 Viên lãnh binh bèn đi với bọn thuộc hạ và điệu các ông về,
nhưng không dùng bạo lực vì sợ bị dân ném đá.
ĐÁP
CA : Tv 33
Đ. Kẻ
nghèo hèn kêu xin, và Chúa đã nhận lời.
(c 7a)
2 Tôi sẽ không ngừng chúc tụng Chúa,câu hát mừng Người chẳng
ngớt trên môi. 3 Linh hồn tôi hãnh diện vì Chúa xin các bạn nghèo
nghe tôi nói mà vui lên.
4 Hãy cùng tôi ngợi khen Đức Chúa, ta đồng thanh tán tụng
danh Người. 5 Tôi đã tìm kiếm Chúa, và Người đáp lại, giải thoát cho
khỏi mọi nỗi kinh hoàng.
6 Ai nhìn lên Chúa sẽ vui tươi hớn hở, không bao giờ bẽ mặt
hổ ngươi. 7 Kẻ nghèo này kêu lên và Chúa đã nhận lời, cứu cho khỏi
mọi cơn nguy khốn.
8 Sứ thần của Chúa đóng trại chung quanh để giải thoát những
ai kính sợ Người. 9 Hãy nghiệm xem Chúa tốt lành biết mấy:hạnh phúc
thay kẻ ẩn náu bên Người!
BÀI GIẢNG
BÍ
TÍCH THÁNH TẨY, KHAI MỞ NGUỒN SỐNG
Giáo
Lý Hội Thánh Công Giáo dạy : “Ai không
lãnh nhận Bí tích Thánh Tẩy, không thể lãnh nhận ơn trong các Bí tích khác”.
Như thế Bí tích Thánh Tẩy khơi nguồn ơn cứu độ, vì chỉ ai được tháp vào Chúa
Giêsu,mới được lãnh nhận hết ơn này đến ơn khác (x Ga 1,16). Bởi thế kẻ nào
khước từ Bí tích này là tự sát. Quả thật
I. BÍ TÍCH THÁNH TẨY KHƠI NGUỒN SỐNG.
Ơn
Bí tích Thánh Tẩy cần cho sự sống mọi người như thân xác ta cần khí, nước và
ánh sáng. Kẻ không đón nhận khí, nước, và ánh sáng, đương nhiên là chết ! Chính
vì vậy mà khi Đức Giêsu dạy ông Nicôđêmô về tầm quan trọng của Bí tích này,
Ngài đã sử dụng ba chất liệu : nước, khí, và ánh sáng, như Ngài nói : “Ai không sinh lại bởi nước và Thần Khí thì không thể vào được Nước Thiên Chúa” ; và “tôi là ánh
sáng đã đến trong thế gian” (Ga 3,5.19 : Tin Mừng). Thế nên không ai có
thể nói : Tôi hít thở oxy hoặc không hít thở là quyền tự do của tôi ; cũng thế,
tôi không thể nói : Tôi có tự do hoặc lãnh hoặc không lãnh Bí tích Thánh Tẩy,
lúc nào tôi muốn là tùy ý tôi thích.
Nhất
là phải biết rằng nguồn sống của Bí tích Thánh Tẩy cần thiết cho sự sống mọi
người còn hơn nước, khí, và ánh sáng. Vì thế Đức Giêsu đã nói : “Các ngươi chớ lo cho thân xác mình lấy gì mà
ăn lấy gì mà mặc… Vậy tiên vàn các ngươi hãy tìm kiếm Nước Thiên Chúa và sự
công chính của Ngài, còn các sự khác Ngài ban thêm cho” (Mt 6,25-33). Bởi
lẽ những của nuôi thân xác quan trọng nhất là nước, khí và ánh sáng Chúa đã ban
đồng đều cho mọi người, xem ra chẳng ai tìm kiếm hay tốn kém mà vẫn được no
thỏa ; chỉ có của ăn vật chất như cơm, cá, thịt, rau, Chúa đã cho mỗi người
có đôi bàn tay, sức khỏe, óc sáng tạo, để cộng tác với ơn Trời làm ra thực
phẩm. Như thế những của nuôi thân xác phần lớn Chúa đã lo cho ta rồi. Tại sao
ta không biết mở con mắt Đức Tin để nhìn ra những ơn huệ ấy, mà đến dâng lễ Tạ
Ơn Chúa mỗi ngày, để xin Chúa giúp ta biết ưu tiên tìm kiếm những thực tại về Nước Thiên Chúa
trước đã, có thế những sự khác Chúa sẽ ban thêm sau.
Sống
như vậy mới xác tín rằng có Đạo mới vực
được thực, chứ đừng bắt chước kiểu sống của những kẻ không có đức tin chủ
trương “có thực mới vực được Đạo”.
II. KHƯỚC TỪ BÍ TÍCH THÁNH TẨY LÀ TỰ SÁT.
Trong
Tin Mừng Gioan nhấn mạnh: Ai khước từ Chúa Giêsu thì cuộc phán xét người ta xảy
ra ngay từ đời này; cũng như người ta từ khước khí, nước, và ánh sáng. Bởi thế Đức
Giêsu nói : “Kẻ không tin, thì bị lên án rồi, vì đã không tin vào danh của Con Một
Thiên Chúa. Và đây là bản án: ánh sáng đã đến thế gian, nhưng người ta đã
chuộng bóng tối hơn ánh sáng, vì các việc họ làm đều xấu xa. Quả thật, ai làm
điều ác, thì ghét ánh sáng và không đến cùng ánh sáng, để các việc họ làm khỏi
bị chê trách” (Ga 3,18b-20 : Tin Mừng).
Đức
Giêsu nói với ông Nicôđêmô như thế, hàm hai ý :
1/
Ngài cảnh cáo các đầu mục Do Thái luôn kết án những ai tin theo Ngài, và cho đó
là những kẻ ngu, không biết gì về Lề Luật (x Ga 7,45-49). Chính vì thế, ông
Nicôđêmô muốn tránh những con mắt dòm ngó của các kỳ mục, ông đã tìm đến với
Đức Giêsu ban đêm.
2/
Đối với những kẻ chống đối Đức Giêsu, dù họ có cẩn thủ giữ Luật Môsê, thì việc làm
của họ cũng là xấu xa, họ thích lưu lại trong bóng tối, ghét lưu lại ánh sáng
là Đức Giêsu, chỉ những ai khiêm tốn như ông Nicôđêmô đến với Đức Giêsu ban
đêm, để Ngài đưa ông vào miền ánh sáng cứu độ, khởi đi từ Bí tích Thánh Tẩy.
Chính vì vậy mà khi ông biết những đầu mục kết án Đức Giêsu, ông đã lên tiếng
bênh vực : “Lề Luật của chúng ta có cho
phép kết án ai, trước khi nghe người ấy và biết người ấy làm gì không ?”
(Ga 7,51).
Ta
biết rằng bản chất của ánh sáng luôn làm vui lòng người có tâm hồn lương thiện.
Đan cử như trẻ con thích vui đùa dưới ánh trăng ; trái lại, tâm địa của những
kẻ trộm cắp thì nguyền rủa ánh trăng rằm, vì không cho chúng cơ hội thuận tiện
ra tay.
Quả thế, các Tông Đồ khi đã được Chúa Giêsu
Phục Sinh thổi hơi, ban Thần Khí cho, để các ông được tái sinh, và nhiệt tâm loan
báo Tin Mừng Phục Sinh, kèm theo những phép lạ các ông làm, khiến cho các thượng
tế uất ức, họ ra lệnh tống các ngài vào ngục, chờ ngày hôm sau đưa ra tòa xét
xử. Nhưng các thượng tế và những người thuộc phe cánh Sađốc ra lệnh cho các thủ
hạ của họ vào nhà tù dẫn độ các Tông Đồ ra để xét xử, các kẻ được sai tới ngục thấy
lính gác vẫn còn đứng canh và cửa ngục còn khóa chặt, thế mà khi họ mở cửa vào
không còn thấy một ai. Lúc đó có một người đến báo cho các thủ lãnh Do Thái
đang ngồi tòa : “Những người mà các ngài
tống ngục hiện đang giảng dạy công khai trong Đền Thờ, khiến mọi người kinh ngạc, viên lãnh binh bèn đi với các thuộc hạ đến điệu các ông về, nhưng không
dùng bạo lực vì sợ dân ném đá” (x Cv 5,17-26 : Bài đọc).
Sự
kiện trên đây đã minh chứng các Tông Đồ khi đã thuộc về Chúa Kitô, chính là những
người được tự do, và không có sự dữ nào thống trị được họ. Phép lạ này chứng
minh ai đã thuộc về Chúa Kitô Giêsu, thì được sống dồi dào. Trái lại, những kẻ
chống đối, không tin Chúa Giêsu, thì thân xác họ xem ra có tự do, nhưng tâm hồn
họ lại mất bình an. Đan cử như những đầu mục Do Thái không tin Chúa Giêsu là
Thiên Chúa Cứu Độ, họ muốn bắt Ngài, nhưng lại sợ dân chúng ném đá. Đó là dấu
chỉ họ sẽ bị xét xử nghiêm khắc hơn trong ngày cánh chung.
Mỗi
người chúng ta đang chuẩn bị ra khỏi thế gian này để về Trời, ai cũng cần phải
đón nhận Con Một Thiên Chúa là quà tặng quý giá nhất Chúa Cha ban cho, để ta
khỏi phải hư đi mà được sống đời đời. “Vì Thiên Chúa yêu thế gian đến nỗi đã ban
Con Một, để ai tin vào Con của Người thì được sống muôn đời” (Ga 3,16 : Tung
Hô Tin Mừng).
Ông
Frank Denton người sáng chế ra áo mặc cho phi hành gia để có thể ngồi trên phi
thuyền rời trái đất bay vào không gian vũ trụ và đáp xuống một hành tinh ngoài
trái đất. Mỗi phi hành gia phải mặc hai áo, chiếc thứ nhất có tên là J 3,16,
chiếc thứ hai là J 3,17. Chiếc J 3,16 mang buồng khí dành cho phi hành gia dùng
lúc phi thuyền bay vào không gian, còn áo J 3,17 cũng chứa một buồng khí dành
cho phi hành gia dùng khi đáp xuống hành tinh. Người ta thắc mắc hỏi ông Frank
Denton : “Ông đặt tên cho hai chiếc áo J
3,16 và J 3,17 có nghĩa là gì?” Ông Frank Denton trả lời : “J 3,16 tức là Phúc
Âm thánh Gioan 3,16 : “Chúa Cha đã hứa
ban Con Một của Ngài cho thế gian, ai tin vào Người Con đó thì không bị hư mất
nhưng được sống đời đời”, thế thì chiếc áo này dù mang buồng khí cho phi
hành gia khi còn bay trong không gian, không phải tự áo ấy bảo đảm cho phi hành
gia được sống, nhưng buồng khí của áo là biểu tượng cho Thần Khí Chúa, ai có
Thần Khí thì được sống ; còn J 3,17, nghĩa là Tin Mừng Gioan 3,17 : “Chúa Cha ban Con Một cho thế gian không phải
để xét xử thế gian, nhưng để nhờ Ngài mà thế gian được cứu độ”, thì chiếc
áo thứ hai này dù có buồng khí cho phi hành gia thở khi đáp xuống hành tinh, cũng
không phải là được an toàn, không bị án tử. Đó là dấu chỉ phải mặc lấy Chúa Kitô
(x Gl 3,27), thì phi hành gia mới khỏi bị án tử, đi bộ trên hành tinh được.
Ngày
21 tháng 7 năm 1969, hai phi hành gia Amstrong và Adrian khi đáp xuống mặt
trăng, ông Amstrong cắm bảng ghi câu Tv 19/18,2 : “Trời xanh tường thuật vinh quang Thiên Chúa, không trung loan báo việc
tay Người làm”, rồi gởi điện về trái đất, cho biết chuyến bay của các ông
bình an ; còn ông Adrian thì trân trọng mở hộp Mình Thánh cung kính rước Chúa
vào lòng.
Vậy
tất cả những ai đã được lãnh nhận Bí tích Khai Tâm, khởi đi từ Bí tích Thánh
Tẩy, hãy cất lời ngợi khen Chúa: “Tôi sẽ
không ngừng chúc tụng Chúa, câu hát mừng Người chẳng ngớt trên môi. Linh hồn
tôi hãnh diện vì Chúa, xin các bạn nghèo nghe tôi nói mà vui lên. Hãy cùng tôi
ngợi khen Đức Chúa, ta đồng thanh tán tụng danh Người. Tôi đã tìm kiếm Chúa, và
Người đáp lại, giải thoát cho khỏi mọi nỗi kinh hoàng. Ai nhìn lên Chúa sẽ vui
tươi hớn hở, không bao giờ bẽ mặt hổ ngươi. Kẻ nghèo hèn kêu xin và Chúa đã nhận lời, cứu cho khỏi mọi cơn nguy
khốn” (Tv 34/33, 2-7 : Đáp ca).
THUỘC
LÒNG
Sự sáng đã đến trong thế gian, mà người ta đã yêu mến tối
tăm hơn sự sáng, vì việc họ làm là điều xấu. Bởi chưng ai làm sự dữ thì ghét sự
sáng, không đến với sự sáng, kẻo bị bắt lỗi về các việc của mình ! (Ga
3,19-20).
http://phaolomoi.net
Lm
GIUSE ĐINH QUANG THỊNH