BÀI GIẢNG
GIÁ TRỊ
PHỤNG VỤ CHÚA GIÊSU THIẾT LẬP
Ta
biết rằng trung tâm ơn cứu độ khơi nguồn từ mầu nhiệm Tử Nạn và Phục Sinh của
Chúa Giêsu, đó chính là Phụng Vụ Mới Chúa Giêsu thiết lập. Theo Tin Mừng Gioan,
ông chỉ ghi lại bảy việc lạ Đức Giêsu làm, ông không gọi là phép lạ mà gọi là
dấu lạ. Bảy dấu lạ đó diễn tả tuần sáng thế mới, Đức Giêsu qua mầu nhiệm Tử Nạn
và Phục Sinh, Ngài làm hoàn hảo tuần sáng thế Chúa Cha đã khởi sự (x.St.1-2).
Tuần Sáng Thế Mới được hoàn hảo vì Thiên Chúa muốn
cứu độ phàm nhân tội lỗi trở thành Con Thiên Chúa trong Chúa Giêsu Phục Sinh
đến nỗi con người được đồng hóa với Ngài. Thánh Gioan nói: vào ngày cánh chung Chúa Giêsu thế nào, ta được như vậy (x 1Ga 3,2&
Gl 2,20). Nhờ vậy mà vạn vật được phúc góp phần với những người được cứu độ mà
tôn vinh Thiên Chúa, nếu không thì chúng bị rơi vào cảnh hư nát làm chúng phải
rên xiết (Rm 8,19t).
Bảy dấu lạ Chúa Giêsu thực hiện trong Tuần Sáng Thế mới
là :
-
Ngài biến nước thành
rượu nho (x Ga 2,1-12).
-
Ngài cứu sống con ông
sĩ quan Roma (x Ga 4,43t).
-
Ngài chữa lành người
bất toại ở nơi ao Cừu (x Ga 5,1t).
-
Ngài hóa bánh nuôi dân
ăn no (x Ga 6,1t).
-
Ngài đi trên sóng biển
đến với thuyền các Tông Đồ (x Ga 6,16t).
-
Ngài chữa lành người mù
từ thuở mới sinh (x Ga 9,1t).
-
Ngài cứu Ladarô đã chết
bốn ngày được sống lại (x Ga 11).
Ta lưu ý dấu lạ mở đầu: Chúa Giêsu biến nước thành
rượu nho, đó là dấu qua nước Bí tích Thánh Tẩy (x Ga 3,5) ta được tháp vào Chúa
Giêsu là cây nho đích thực (x Ga 15). Nhờ đó, ta có chết thối như anh Ladarô,Chúa
Giêsu cũng cho được sống lại ( dấu lạ thứ 7- dấu cuối cùng).
Bởi thế, ta muốn nhận ra những điểm giáo lý qua Tuần
Sáng Thế Mới, thì phải tìm hiểu những dấu chỉ qua thị kiến của ngôn sứ Êzêkiel
trong Bài đọc, và qua phép lạ Đức Giêsu chữa lành người bất toại :
A. QUA NHỮNG DẤU CHỈ TRONG THỊ KIẾN ÊZÊKIEL (Ed
47,1-9.12 : Bài đọc).
1. Thiên sứ
dẫn ông Êzekiel đến phía cửa Đền Thờ
(Ed 47,1a) : Báo trước Đức Giêsu là Đền Thờ bị người ta phá hủy vào ngày Thứ
Sáu Tuần Thánh,nhưng ba ngày sau Ngài sống lại (x Ga 2,19-21).
2. Nước từ
dưới ngưỡng Đền Thờ chảy về phía Đông
(Ed 47,1b) : Phía Đông là phía hướng về Đức Giêsu. Ông Zacarya đã xác định Đức
Giêsu là Vầng Đông viếng thăm loài người (Lc 1,78).
3. Nước
chảy xuống phía nam bàn thờ (Ed
47,1c) : Báo trước hành trình của Đức Giêsu khởi sự từ miền bắc Galilê xuống
miền nam Giuđê và bị giết ở đây, trở thành Hy Lễ Mới, để ai hiệp dâng Hy Lễ này
với Chúa Giêsu là cách thờ phượng được Chúa Cha ưa chuộng (x Ga 4,23).
4. Nước từ
bên phải Đền Thờ chảy ra thành một nguồn suối (Ed 47,2) : Bên phải thuộc về những người được Chúa cứu độ (x Mt
25,34), nhờ nước và Máu từ trái tim Đức Giêsu bị đâm dốc ra (x Ga 19,34), trở
thành nguồn suối cứu độ những ai đến tham dự Phụng Vụ của Đức Giêsu thiết lập.
5. Thiên sứ
dẫn Êzekiel lội xuống suối bốn lần đo mỗi lần đều được 1.000 xích (Ed 47,3) : Số ngàn là thời điểm Chúa ban dư tràn ân
phúc đối với những ai tuân giữ Lời Chúa (x Xh 20,6 ; Gr 32,18a) ; số 4 là khắp
bốn phương trời, nói cách khác là bao phủ cả trái đất.
6. Thiên sứ
dẫn Êzekiel lội suối nước đo ba lần trên thân thể ông : lần I tới mắt cá chân: đo 1.000 xích ; lần II tới
đầu gối : đo 1.000 xích ; lần III tới ngang thắt lưng (ngực) : cũng đo 1.000
xích (x Ed 47,3-5), đây là dấu chỉ trên Thân Thể Đức Giêsu :
·
Đo tới mắt cá chân: Dấu đinh ở chân Đức
Giêsu.
·
Đo tới đầu gối : Dấu chỉ lúc Đức Giêsu được an táng, hai tay Ngài xuôi xuống tới đầu
gối. Vậy đây là dấu chỉ thương tích tay Đức Giêsu.
·
Đo tới ngực
: Dấu chỉ Đức Giêsu bị đâm ngang cạnh sườn thấu tim.
7. Con suối
nước dâng cao làm ông Êzekiel không thể lội qua được (Ed 47,5b) : Dấu chỉ ơn cứu độ nhờ Tử Nạn và Phục
Sinh của Đức Giêsu không ai suy thấu, không ai kín múc hết được : ơn cứu độ
phong phú và dồi dào ban cho hết mọi người tin nhận Đức Giêsu là Cứu Chúa.
Thánh Phaolô hô lên : “Ôi! Thẳm sâu sự
giàu có, khôn ngoan thượng trí của Thiên Chúa” (Rm 11,33a).
8. Thiên sứ
dẫn ông Êzekiel trở lại hai bên bờ suối có nhiều cây ăn trái, lá không bao giờ tàn, trái không
bao giờ hết, lúc nào cũng có trái mới nhờ nước từ Thánh Điện chảy ra. Trái dùng
làm lương thực, lá dùng làm thuốc (Ed 47,6.12). “Trái dùng làm lương thực” : chính Chúa Giêsu Thánh Thể là của ăn
thật nuôi sống xác hồn loài người, vì họ được thông hiệp vào cùng một sự sống
với Thiên Chúa (x Ga 6,28-58) ; “lá làm
thuốc” : Lời Chúa chữa lành mọi bệnh tật linh hồn để thân xác sống bình an.
Tác giả sách Khôn Ngoan viết : “Người
được lành mạnh không phải nhờ cỏ nọ hay thuốc kia, nhưng nhờ Lời Chúa chữa họ
khỏi mọi tật nguyền” (Kn 16,12)
Vậy chỉ khi ta hiệp dâng Thánh Lễ mới được hai nguồn
sống này nhờ hai bàn tiệc Lời Chúa và Mình Máu Thánh Chúa:
9. Nước
chảy ra biển chết, nước hóa lành (Ed
47,8) : Biển là sào huyệt của ma quỷ. Vì thế Đức Giêsu cho phép quỷ xuất khỏi
một người nhập vào đàn heo và lao xuống biển (x Mt 8,31-32) ; cũng thế thánh
Gioan nói về ngày cánh chung “biển không còn nữa” (x Kh 21,1), tức là không còn
sự dữ, hoặc không còn ác thần nào làm hại người thuộc về Chúa nữa.
10. Nước
chảy tới đâu sinh vật lúc nhúc, có rất nhiều cá (Ed 47,9) : Đó là dấu chỉ ơn cứu độ của Đức Giêsu
ban dồi dào cho dân Ngài tuyển chọn (Ga 10,10). Vậy qua nguồn suối cứu độ phát
xuất từ bên phải Đền Thờ ban sự sống dồi dào cho muôn người đến hưởng dùng. mà Đức Giêsu đã giải thích cho người
phụ nữ Samari về Nước Hằng Sống, nên chị thưa với Chúa Giêsu: “ Thưa Ngài, xin Ngài ban cho tôi Nước Hằng
Sống, để tôi hết khát, khỏi đến đây kín múc nước nữa” (Ga 4,14-15).
B. QUA NHỮNG DẤU CHỈ TRONG
PHÉP LẠ ĐỨC GIÊSU CHỮA LÀNH NGƯỜI BẤT TOẠI (Ga 5,1-3a.5-16 : Tin Mừng).
1. Gần
Cửa Chiên (Ga 5,2a), dấu chỉ nói về Đức Giêsu trong ngày Thứ Sáu Tuần
Thánh, Ngài như con chiên bị dẫn đến lò sát sinh, như chiên mẹ ngậm câm không
mở miệng (x Is 53,7). Ông Gioan Bt giới thiệu Đức Giêsu: “Đây là Chiên Thiên Chúa, Đấng khử trừ tội trần gian” (Ga 1,29).
2. Hồ
nước ở Giêrusalem tên là Bêthesđa (Ga 5,2b), tiếng Do Thái có nghĩa là “Nhà Có Nhiều Hồng Ân”. Nhà đó phải hiểu
là thân xác Đức Giêsu bị đâm, khơi nguồn ơn cứu độ (x Ga 2,21-22 ; 19,34).
3. Hồ
này có năm dãy hành lang (Ga 5,2c) : Đó là hình cuốn sách được mở ra : Có
bốn cạnh và gáy giữa. Là dấu nói về ngày Thiên Chúa thực hiện ơn cứu độ như lời
thánh Gioan diễn tả trong sách Khải huyền : “Một cuốn sách không ai có thể mở trừ Con Chiên, Ngài đến lãnh lấy sách
và mở ra, tức thì có bốn Sinh Vật cùng với hai mươi bốn Lão Công phủ phục trước
Con Chiên (bốn Sinh Vật đó chính là bốn tác giả Tin Mừng ; 24 Lão Công là
dân Israel cũ và Israel mới), tay cầm
bình hương dâng lời cầu nguyện và hát xướng bài ca mới : Ngài đáng lãnh lấy
sách và mở ấn : vì Ngài đã chịu tế sát và đã mua chuộc cho Thiên Chúa bằng máu
Ngài, người thuộc mọi dòng họ, tiếng nói và mọi dân mọi nước” (x Kh 5,1-9).
4. Một
người đã mắc bệnh 38 năm được Đức Giêsu chữa lành (Ga 5,5.9) : Con số này
làm ta lưu ý đến con số 40 trong Kinh Thánh, nhằm diễn tả thời gian chay tịnh
và thanh luyện để hưởng ơn cứu độ : Lụt Hồng thủy 40 ngày (x St 7,4) ; dân bỏ
Ai Cập về đất Hứa 40 năm (x Ds 14,34) ; ông Môsê lên núi Sinai sau 40 ngày được
Chúa ban Luật để trao lại cho dân (x Xh 24,18) ; Đavid cai trị Giêrusalem 40
năm (x 2Sm 5,4) ; Đức Giêsu chay tịnh 40 đêm ngày (x Mt 4,2) ; Chúa Giêsu Phục
Sinh ở với các môn đệ 40 ngày (x Cv 1,13). Thế nên ta mới hiểu người được Đức
Giêsu chữa lành xảy ra vào đầu cuộc đời công khai của Ngài. Thực vậy, sau tiệc
cưới Cana, Đức Giêsu lên Giêrusalem đánh đuổi
những người buôn bán ra khỏi Đền Thờ (x Ga 2). Lần đầu tiên Ngài lên Đền Thờ
vào dịp lễ Vượt Qua, Ngài gặp người bị liệt đã 38 năm,và Ngài chữa lành cho,
nêu dấu chỉ còn hai năm nữa Ngài sẽ bị giết chết, sau ba ngày Ngài phục sinh
hoàn tất Phụng Vụ Ngài thiết lập, sinh ơn cứu độ cho những ai tin vào Ngài là
Đấng Cứu Độ duy nhất (x Cv 4,12).
5. Đức
Giêsu ra lệnh cho người bất toại vác chõng mà đi (Ga 5,8) : Báo trước những
kẻ chứng kiến phép lạ này, chúng căm phẫn Ngài vi phạm Luật ngày Sabat, vì cho rằng Ngài đã phá Luật
Thánh, nên chúng ra lệnh Ngài phải vác thập giá lên đồi Sọ để chúng giết (x Ga
19,17). Qua Khổ Nạn này, Đức Giêsu mới thực sự cứu những linh hồn bất toại vì phạm
tội mà đến với Ngài.
Từ
những dấu chỉ ta tìm hiểu ý nghĩa như trên, Hội Thánh muốn chúng ta để tâm thực
hành những điểm giáo lý :
a. Biết bao nhiêu bệnh nhân muốn được chữa
lành, họ cần có người đưa xuống hồ đầu tiên khi Thiên thần đến khuấy động nước.
Tiếc rằng người bị liệt 38 năm, đã quá yếu, lại không có người đưa xuống hồ mỗi
khi có nước động, nên bệnh nhân này càng thêm đau khổ khi thấy một người khỏe
hơn xuống hồ trước và đã được chữa lành.
Thế
thì hôm nay, ta phải khuyến khích
người anh em cùng đi dự Lễ, vì bất cứ tội nhân nào nghe lời Hội Thánh đến Nhà
Thờ dự Phụng Vụ, thì đều được lành mạnh cả hồn xác, được sống đời đời hơn những
bệnh nhân nằm bên bờ hồ Bêthesđa, chỉ có một người xuống hồ trước nhất khi có
nước động mới được lành bệnh.
b. Những bệnh nhân nằm gần Cửa Chiên có
hồ tên Bêthesđa. Hồ này có năm dãy hành lang, cho ta xác tín : Mỗi
khi tham dự Phụng Vụ, Hội Thánh mở Sách Thánh công bố Lời Hằng Sống cho ta và
ta còn được ăn “thịt cừu” (rước Lễ). Thì chính Chúa Giêsu Phục Sinh mới thực là
“Nhà Có Nhiều Hồng Ân”. Nơi nhà này, chúng ta được lãnh nhận hết ơn này đến ơn
khác (Ga 1,16), đúng với ý nghĩa tên hồ Bêthesđa, người Do Thái hiểu là “Nhà Có Nhiều Hồng Ân”.
c. Người được lành bệnh bắt đầu chưa
biết tên người cứu mình. Chỉ khi người ấy vào Đền Thờ mới được biết Vị chữa
lành bệnh cho chính là Đức Giêsu (x Ga 5,12-14 : Tin Mừng). Cũng
thế, khi được ơn Chúa ban, ta muốn được biết rõ về Thiên Chúa, Đấng yêu ta, ta
phải đến Nhà Thờ dự Phụng Vụ, nhất là Thánh Lễ mới gặp chính Chúa Giêsu Phục
Sinh, và Ngài bảo ta như Ngài đã nói với người bất toại : “Từ nay con đừng phạm
tội nữa, kẻo khốn hơn trước” (Ga 5,14 : Tin Mừng). Bởi thế khi được dự
tiệc Thánh Thể, ta hãy cầu nguyện cùng Chúa : “Lạy Chúa Trời, xin tạo cho con một tấm lòng trong trắng, xin ban lại
cho con niềm vui vì được Ngài cứu độ” (Tv 51/50,12a.14a : Tung Hô Tin
Mừng).
d. Chúa bảo người bị bệnh vác chõng mà
đi vào ngày Sabat là dấu chỉ Ngài muốn ta phải chấp nhận cực khổ đi dự Phụng Vụ, ta mới được hưởng trọn vẹn
nguồn ơn cứu độ khơi nguồn từ “Đền Thờ
Giêsu” bị phá hủy trên thập giá, đã tuôn trào nguồn suối cứu độ, đem lại sự
sống cho muôn sinh vật, đặc biệt cho loài người, mà trí con người không ai suy
thấu, cũng như không ai kín cạn nguồn ơn cứu độ đã được báo trước qua thị kiến
của ngôn sứ Êzekiel trong Bài đọc.
Vậy
ta hãy tạ ơn Chúa, vì “Ngài là nơi ta ẩn
náu, là sức mạnh của ta. Người luôn luôn sẵn sàng giúp đỡ khi ta phải ngặt
nghèo. Chính Chúa Tể càn khôn ở cùng ta luôn mãi, Thiên Chúa nhà Giacob là
thành bảo vệ ta” (Tv 46/45,2.8 : Đáp ca).
THUỘC LÒNG
Ta đến cho chiên Ta được sống và sống cách
dồi dào (Ga 10,10).
http://phaolomoi.net
Lm GIUSE ĐINH QUANG THỊNH