Kinh Thánh
Thời kỳ
Sách
Chương
 
      Lm. Trịnh Ngọc Danh
Bài giảng
CHÚA NHẬT 10 THƯỜNG NIÊN NĂM C
BÀI ĐỌC 1 VÀ 2 (NẾU CÓ)
Normal 0 false false false MicrosoftInternetExplorer4

BÀI ĐỌC I :  1V 17,7-24

            17 Hồi ấy, ngôn sứ Ê-li-a trú ngụ tại nhà một bà góa ở Xa-rép-ta. Đứa con trai của bà ngã bệnh. Bệnh tình trầm trọng đến nỗi nó tắt thở.18 Bà nói với ông Ê-li-a: "Hỡi người của Thiên Chúa, việc gì đến ông mà ông tới nhà tôi để nhắc lại tội tôi, và làm cho con tôi phải chết? "19 Ông Ê-li-a trả lời: "Bà đưa cháu cho tôi." Ông bồng lấy đứa trẻ bà đang ẵm trong tay, đem lên phòng trên chỗ ông ở, và đặt nó nằm lên giường.20 Rồi ông kêu cầu Đức Chúa rằng: "Lạy Đức Chúa, Thiên Chúa của con. Chúa nỡ hại cả bà goá đã cho con ở nhờ, mà làm cho con bà ấy phải chết sao? "21 Ba lần ông nằm lên trên đứa trẻ, và kêu cầu Đức Chúa rằng: "Lạy Đức Chúa, Thiên Chúa của con, xin cho hồn vía đứa trẻ này lại trở về với nó! "22 Đức Chúa nghe tiếng ông Ê-li-a kêu cầu, hồn vía đứa trẻ trở về với nó, và nó sống.23 Ông Ê-li-a liền bồng đứa trẻ từ phòng trên xuống nhà dưới, trao cho mẹ nó, và nói: "Bà xem, con bà đang sống đây! "24 Bà nói với ông Ê-li-a: "Vâng, bây giờ tôi biết ông là người của Thiên Chúa, và lời Đức Chúa do miệng ông nói ra là đúng."

ĐÁP CA : Tv 29

Đ.      2  Lạy Chúa, con xin tán dương Ngài,

         vì đã thương cứu vớt.

2 Lạy Chúa, con xin tán dương Ngài,vì đã thương cứu vớt, không để quân thù đắc chí nhạo cười con. 4 Lạy Chúa, từ âm phủ Ngài đã kéo con lên, tưởng đã xuống mồ mà Ngài thương cứu sống.

5 Hỡi những kẻ tín trung, hãy đàn ca mừng Chúa, cảm tạ thánh danh Người. 6 Người nổi giận, giận trong giây lát,nhưng yêu thương, thương suốt cả đời.Lệ có rơi khi màn đêm buông xuống, hừng đông về đã vọng tiếng hò reo.

11 Lạy Chúa, xin lắng nghe và xót thương con, lạy Chúa, xin phù trì nâng đỡ.12a Khúc ai ca, Chúa đổi thành vũ điệu,13b Lạy Chúa là Thiên Chúa con thờ, xin tạ ơn Ngài mãi mãi ngàn thu.

BÀI ĐỌC II :  Gl 1,11-19

               11 Thưa anh em, tôi xin nói cho anh em biết: Tin Mừng tôi loan báo không phải là do loài người.12 Vì không có ai trong loài người đã truyền lại hay dạy cho tôi Tin Mừng ấy, nhưng là chính Đức Giê-su Ki-tô đã mặc khải.13 Anh em hẳn đã nghe nói tôi đã ăn ở thế nào trước kia trong đạo Do-thái: tôi đã quá hăng say bắt bớ, và những muốn tiêu diệt Hội Thánh của Thiên Chúa.14 Trong việc giữ đạo Do-thái, tôi đã vượt xa nhiều đồng bào cùng lứa tuổi với tôi: hơn ai hết, tôi đã tỏ ra nhiệt thành với các truyền thống của cha ông.        

            15 Nhưng Thiên Chúa đã dành riêng tôi ngay từ khi tôi còn trong lòng mẹ, và đã gọi tôi nhờ ân sủng của Người.16 Người đã đoái thương mạc khải Con của Người cho tôi, để tôi loan báo Tin Mừng về Con của Người cho các dân ngoại. Tôi đã chẳng thuận theo các lý do tự nhiên,17 cũng chẳng lên Giê-ru-sa-lem để gặp các vị đã là Tông Đồ trước tôi, nhưng tức khắc tôi đã sang xứ Ả-rập, rồi lại trở về Đa-mát.18 Ba năm sau tôi mới lên Giê-ru-sa-lem diện kiến ông Kê-pha, và ở lại với ông mười lăm ngày.19 Tôi đã không gặp một vị Tông Đồ nào khác ngoài ông Gia-cô-bê, người anh em của Chúa.

BÀI TIN MỪNG
Normal 0 false false false MicrosoftInternetExplorer4

TUNG HÔ TIN MỪNG : Lc 7,16

            Hall-Hall : Vị ngôn sứ vĩ đại đã xuất hiện giữa chúng ta, và Thiên Chúa đã viếng thăm dân Người. Hall.

TIN MỪNG : Lc 7,11-17

            11 Một hôm, Đức Giê-su đi đến thành kia gọi là Na-in, có các môn đệ và một đám rất đông cùng đi với Người.12 Khi Đức Giê-su đến gần cửa thành, thì đang lúc người ta khiêng một người chết đi chôn, người này là con trai duy nhất, và mẹ anh ta lại là một bà goá. Có một đám đông trong thành cùng đi với bà.13 Trông thấy bà, Chúa chạnh lòng thương và nói: "Bà đừng khóc nữa!"14 Rồi Người lại gần, sờ vào quan tài. Các người khiêng dừng lại. Đức Giê-su nói: "Này người thanh niên, tôi bảo anh: hãy trỗi dậy!"15 Người chết liền ngồi lên và bắt đầu nói. Đức Giê-su trao anh ta cho bà mẹ.16 Mọi người đều kinh sợ và tôn vinh Thiên Chúa rằng: "Một vị ngôn sứ vĩ đại đã xuất hiện giữa chúng ta, và Thiên Chúa đã viếng thăm dân Người".17 Lời này về Đức Giê-su được loan truyền khắp cả miền Giu-đê và vùng lân cận.

 

BÀI GIẢNG
Normal 0 false false false MicrosoftInternetExplorer4

ĐỨC MARIA LÀ KẾT TINH CỦA HỘI THÁNH VIÊN MÃN,

ĐƯỢC ĐỒNG CÔNG VỚI CHÚA CON,

ĐẤNG CỨU ĐỘ NHÂN LOẠI !

            Để minh chứng chân lý trên trước nhất ta phải biết sứ mệnh của Đức Maria đã được diễn tả qua hai mẫu người : Bà góa thành Sarépta và bà lớn thành Sunem ; đồng thời biết lắng nghe giáo huấn của Hội Thánh dạy, ta hiểu Đức Maria là Hội Thánh viên  mãn thời cánh chung:

I. ĐỨC MARIA HƠN BÀ GÓA SARÉPTA, VÀ CÒN HƠN BÀ LỚN THÀNH SUNEM.

            Tác giả Luca ghi lại cho chúng ta lời Chúa Giêsu xác định về sứ mệnh phổ quát của Ngài chiếu theo sứ mệnh của ngôn sứ Êlya và ngôn sứ Êlysê  (x Lc 4,25t). Do đó phép lạ Đức Giêsu phục sinh con trai bà góa thành Nain (x Lc 7,11-17 : Tin Mừng), có ý thể hiện gía trị phép lạ ngôn sứ Êlya cứu sống con trai bà góa Sarépta (x 1V 17,7t : Bài đọc I), cũng như phục sinh con trai bà lớn thành Sunem (x 2V 4,8t). Và như vậy, ông Luca có ý cho độc gỉa hiểu :

             Dù có hoàn cảnh nghèo khó như bà góa Sarépta, hay giàu có như bà lớn thành Sunem, cũng đều phải có bổn phận cộng tác với người làm việc của Thiên Chúa như hai ngôn sứ Êlya và Êlysê. Tuy thế, bà góa Sarépta giúp đỡ ngôn sứ Êlya và bà lớn thành Sunem cho ngôn sứ Êlysê trú ngụ, nhưng vẫn còn thua xa Mẹ Maria nuôi dưỡng Đức Giêsu :

1- Ngôn sứ Êlya và Êlysê chỉ là phàm nhân.         

1* Đức Giêsu là Thiên Chúa.

2- Bà góa Sarépta và bà lớn thành Sunem chỉ là dân ngoại giáo.        

2* Bà góa Maria là dân riêng của Chúa, nhất là còn là Mẹ Thiên Chúa,  nên mới thật là Bà Lớn.

3- Nhờ ngôn sứ Êlysê tiên báo cho bà lớn biết : Chúa sẽ cho bà sinh con.     

3* Nhờ sứ thần Chúa cho cô Maria biết : Bà sẽ sinh Con Thiên Chúa bởi quyền năng Chúa Thánh Thần. Mẹ trở thành Bà Lớn có phúc hơn mọi người phụ nữ khác !

4- Bà góa Sarépta chỉ giúp ngôn sứ Êlya một chiếc bánh, còn bà lớn Sunem cho ngôn sứ Ê-ly-sê ngụ nhờ mỗi khi ông có việc ghé ngang qua.

4* Đức Maria sinh, dưỡng, dục Con Thiên Chúa suốt 33 năm.

5- Bà góa Sarépta nói với ngôn sứ Êlya khi con trai duy nhất của bà qua đời : “Giữa tôi với ông có liên quan gì?” (x 1V 17,18a)

5* Đức Giêsu nói với Mẹ Maria khi Mẹ can thiệp cho tiệc cưới có đủ rượu ngon : “Giữa tôi và bà có liên quan gì ?” (x Ga 2,4)

6- Bà góa Sarépta vì làm theo Lời Chúa dạy qua miệng ngôn sứ Êlya, nên hũ bột nhà bà không vơi !

6* Đức Maria dặn dò người ta làm theo Lời Chúa, nên họ có đủ rượu ngon để thết đãi thực khách (x Ga 2).

7- Con trai bà Lớn chết, mà bà vẫn nói với ngôn sứ Êlysê : Tôi vẫn bình an.   

7* Con Một Mẹ Maria bị giết mà Mẹ vẫn đứng trụ (bình an) dưới chân thập gía.

8- Bà lớn Sunem dù có chồng, nhưng bà nói với ngôn sứ Êlysê : Tôi không xin cho mình có con”.

8* Đức Maria dù có chồng nhưng không xin cho mình có con, vì Mẹ là Đấng Đồng Trinh.

9- Hai ngôn sứ Êlya và Êlysê đều nằm trên thi thể hai đứa bé, miệng kề miệng, mắt kề mắt, tay kề tay mà cầu xin Thiên Chúa cho các cậu sống lại.        

9* Đức Giêsu Phục Sinh qua Bí tích Thánh Thể, Ngài “chui” vào miệng các Kitô hữu – con cái của Mẹ Maria, cũng là con Hội Thánh, đáng phải chết vì tội đã phạm - để làm cho họ được cùng một xương thịt, cùng một sự sống với Thiên Chúa.

II. ĐỨC MARIA LÀ HỘI THÁNH CÁNH CHUNG.

            Trong các phép lạ Đức Giê-su làm, chỉ có ông Luca ghi lại cho chúng ta phép lạ Chúa phục sinh cậu con trai duy nhất của bà góa thành Nain, và không thấy có ai ngỏ ý xin Ngài. Ta lại biết, thành Nain nằm kế cận thành Sunem. Như thế ông Luca lưu ý cho các độc gỉa hiểu rằng đây là phép lạ tiên báo thời cánh chung, trên trần thế chẳng còn ai kêu cầu Chúa cứu sống mình, chỉ còn Đức Maria ở trên trời hằng chuyển cầu cho con cái Mẹ là các Kitô hữu, dù có chết vì tội đã phạm cũng sẽ được phục sinh. Uy tín của Mẹ trước mặt Thiên Chúa còn vượt xa hơn uy tín của bà góa Sarépta cũng như bà lớn thành Sunem cầu khẩn với ngôn sứ Êlya và ngôn sứ Êlysê cho con mình được sống lại !

            Ta còn biết, Đức Maria không xin với Thiên Chúa nhân danh cá nhân mình, mà Mẹ còn dựa vào sứ mệnh đồng công cứu chuộc với Con Mẹ, vì Mẹ là Hiền thê của Đức Kitô, như lời giáo huấn trong Công Đồng Vat.II trong Hiến Chế Hội Thánh sốn 61-63 dạy :

Đức Maria đã cộng tác một cách hoàn toàn độc nhất vô nhị vào công trình của Đấng Cứu Thế, bằng lòng vâng phục bằng đức tin, đức cậy, đức ai nồng nhiệt, để hoàn trả sự sống siêu nhiên cho các linh hồn. bởi vậy, trên bình diện ân sủng, Mẹ thật là Mẹ của chúng ta.

Vì thế, trong Hội Thánh, Đức Ma-ri-a được kêu cầu qua các tước hiệu : Trạng Sư, Vị Bảo Trợ, Đấng Phù Hộ, Đấng Trung Gian. ai trò trung gian của Đức Maria không làm lu mờ hay suy giảm vai trò trung gian duy nhất của Chúa Kitô chút nào. Vì mọi ảnh hưởng có sức cứu độ của Đức Maria trên nhân loại, đều bắt đầu từ công nghiệp dư tràn của Chúa Kitô.

Do đó Mẹ là một chi thể trổi vượt và độc đáo nhất của Hội Thánh, có thể nói : Mẹ là kiểu mẫu của Hội Thánh.

Ngày nay Mẹ Chúa Giêsu đã được vinh hiển hồn xác lên trời, là hình ảnh và khởi thủy của Hội Thánh sẽ hoàn thành đời sau thế nào, thì cũng thế, dưới đất này cho tới ngày Chúa đến Mẹ chuyển chiếu sáng như dấu chỉ lòng cậy trông vững vàng và niềm an ủi cho dân Chúa đang lữ hành. (x Sách GLCG số 964-972)

            Để minh chứng điều này, Phụng vụ hôm nay cho ta nhìn lại gương sống đạo của thánh Phaolô trong Bài đọc II : Ông Phaolô được kêu gọi hoàn lương trở nên Tông Đồ đắc lực cho Đức Giêsu,là nhờ thánh Stêphanô trên trời cầu nguyện cho, nhưng khi ông đã được ơn trở lại, ông còn phải hiệp thông với các Tông Đồ tiền bối, nhất là được tham kiến với thủ lãnh Phêrô, vì Giáo hoàng tiên khởi, và ông còn được Mẹ Maria trên trời bầu cử cho ông trước mặt Thiên Chúa. Vì Đức Maria là khuôn mẫu của Hội Thánh viên mãn đang hiển trị cùng với Con Một của mình bên hữu Chúa Cha, hằng chuyển cầu cho những ai đã trở nên chi thể của Con Mẹ trong Bí tích Thánh Tẩy.

Truyện kể :

             Cậu Karol Wojtyla lên 7 tuổi, đứng bên giường mẹ đang hấp hối, cậu khóc nức nở! Người mẹ nắm tay con ôn tồn nói : “Con đừng khóc, mẹ này chỉ là vú nuôi con, khi Chúa rước vú này về với Chúa, thì người Mẹ thật của con là Đức Ma-ri-a xuất hiện, sẽ đích thân chăm sóc con.”

            Từ ngày ấy, cậu Karol Wojtyla tỏ lòng sùng kính Đức Mẹ cách đặc biệt, tưởng đó cũng là lý do quan trọng mà ngày 18-10-1978 Chúa đã chọn ngài lên ngôi Giáo hoàng (Gioan Phaolô II), đem lại nhiều lợi ích cho Hội Thánh và cả xã hội trong mọi lãnh vực.

            Vậy Đức Maria là Mẹ thật của tôi.

THUỘC LÒNG.

            Trên thập gía, Chúa Giêsu trối ông Gioan – đại diện Hội Thánh – cho Đức Maria : Thưa Bà, này là con Bà ! (x Ga 19,26)

 


Gửi phản hồi - thắc mắc

Tên của bạn *
Địa chỉ
Email *
Điện thoại
   
Câu hỏi

Lên đầu trang
Các bài giảng khác: