BÀI GIẢNG
TẠI SAO ĐỨC
GIÊSU KHÓC ?
Có
nhiều người lầm tưởng khuôn mặt Đức Giêsu rất buồn, vì cả bốn Tin Mừng không
tác giả nào ghi Đức Giêsu cười. Trái lại, ông Luca và ông Gioan lại ghi Đức
Giêsu khóc. Chúng ta biết buồn quá cũng khóc mà vui quá cũng khóc. Ta hãy tìm
hiểu lý do nào khiến Đức Giêsu khóc, để một khi đã biết ý Ngài, chúng ta phải
làm cho Đức Giêsu luôn cười đến chảy nước mắt !
I. LÝ DO ĐỨC GIÊSU KHÓC THEO THÁNH SỬ LUCA GHI (x Lc
19,41).
Chủ
đích của Tin Mừng Luca, ông nhấn mạnh về nhân
tính của Đức Giêsu, Ngài có bản tính như mọi người : biết vui, biết buồn,
biết sợ, biết đói, biết khát, ngoại trừ tội lỗi. Để nhấn mạnh Đức Giêsu có nhân
tính, ông Luca ghi trước giờ Tử Nạn, Ngài sợ hãi đến toát mồ hôi máu (x Lc
22,44). Với bản tính yếu đuối trong thân phận làm người, Đức Giêsu khóc vì dân
Do Thái không đón nhận Ngài là Đấng Cứu Độ duy nhất, như các ngôn sứ đã báo cho
họ biết trước, thì tai họa sẽ ập xuống trên dân tộc: Ngài nhìn thấy trước cảnh
hoang tàn của thành Giêrusalem, và dân tộc Ngài bị phân tán khắp mọi dân mọi
nước. Thực vậy, vào năm 70 quân Roma thình lình kéo đến vây bủa thành
Giêrusalem phá bình địa, không còn hòn đá nào chồng trên hòn đá nào, dân Ngài
cố thủ và bám vào Đền Thờ như bùa hộ mệnh, thế mà kẻ thì bị giết, người thì bị
bắt đi đày (x Lc 19,28-44 : Tin Mừng).
Sự cố đau thương này đã khai mở từ
lúc Ngài sinh vào đời, cha mẹ Ngài không tìm kiếm được nơi êm ấm trong thành
của người Do Thái để sinh Con, nên Ngài được cha mẹ đặt nằm trong máng cỏ ngoài
thành (x Lc 2,7). Vì dân khước từ Đấng mà Thiên Chúa đã hứa ban để cứu chuộc họ
(x St 3,15), do đó Chúa để cho vua Hêrôđê ra lệnh truy nã diệt hài nhi Do Thái
nào mới sinh ra từ hai tuổi trở xuống ở thành Bethlem và các vùng phụ cận, vì
ông nghĩ rằng có kẻ sinh ra manh nha để tiếm quyền của ông, làm cho tổ phụ của
họ là bà Rakel, vợ ông Giacob, dù đã được an táng cũng đội mồ chỗi dậy khóc
thương dòng giống của bà, đến nỗi không ai an ủi được, vì con cháu của bà đã
không biết đón nhận Đấng Cứu Độ, nên chắc chắn hành động dã man của vua Hêrôđê
truy nã giết Đức Giêsu trở thành dấu chỉ dòng giống của bà Rakel sẽ còn khốn
nạn vì, chính họ quyết liệt giết Con Thiên Chúa, thì chắc chắn họ phải khổ hơn
thời lưu đày ở Babylon suốt 40 năm (x Mt 2,1-18).
Như vậy tiếng khóc của Đức Giêsu theo thánh sử Luca
là tiếng khóc nối dài của bà Rakel tổ phụ của họ, vì họ không đón nhận Ngài,
thì tới năm 70, Chúa để cho quân Roma đến phá thánh điện Giêrusalem, dân phải
khổ hơn thời vua Nabukodonosor cho phá Đền Thờ này và bắt dân đi lưu đày bên
Babylon.Dưới bàn tay độc ác của vua Nabukodonosor, dân Do Thái chỉ bị khổ 40
năm, bắt đầu vào năm 587 trước Công nguyên, sau đó Chúa lại dùng vua Cyros,
người ngoại giáo xứ Ba Tư giải phóng cho dân Do Thái khỏi ách nô lệ Babylon,
đặc biệt nhà vua còn cung cấp tiền của cho người Do Thái trở về quê hương tái
thiết Đền Thờ, Đền Thờ này rất lộng lẫy và nguy nga, đến nỗi sử gia Flavius tấm
tắc khen : “Một trăm vẻ huy hoàng của vũ
trụ thì Giêrusalem chiếm 90%”.
Thế nhưng, vì dân này cố tình và quyết liệt muốn loại
trừ Con Thiên Chúa, Đấng khơi nguồn sự sống từ Do Thái để bung ra khắp thế giới
(x Ga 4,22), nên Đền Thờ nguy nga này và dân tộc của Ngài bị xóa trên bản đồ
thế giới đã kéo dài gần 2.000 năm, cho dẫu từ năm 1948, sau Đệ nhị thế chiến,
Liên Hiệp quốc tạo điều kiện cho
những người Do Thái lưu vong trở về để tái lập quốc gia,nhưng cho đến ngày hôm
nay Israel vẫn không xác định được ranh giới đất nước của mình, Đền Thờ
Giêrusalem cũng không thể tái thiết được, bởi vì giữa dân Israel, dòng giống
của ông Isaac, con bà Sara, vợ chính thức của ông Abraham, vẫn không ngừng gây
chiến với dân Palestin dòng giống của Ismael, con của bà Hagar, nữ tỳ của ông
Abraham. Như thế, Isaac và Ismael con cùng cha khác mẹ vẫn hăm he chờ thanh
toán nhau để chiếm từng mảnh đất cho mình. Ta biết nguyên nhân giữa người
Palestin và người Israel luôn gây chiến là tại lỗi bà Sara, vợ ông Abraham, vì
Chúa đã hứa cho vợ chồng Abraham và Sara có con (x St 15), thế mà bà Sara lại
đưa đứa nô lệ Hagar ăn ở với chồng, sinh ra Ismael (x St 16), đến khi bà Sara
sinh Isaac, từ bấy giờ giữa Isaac, tổ phụ Israel luôn bất hòa với Ismael, tổ
phụ Palestin.Sự cố đau thương này vẫn đang diễn ra và không hy vọng có thời kết
thúc. Sự cố lịch sử này càng chứng minh Lời Đức Giêsu đã tiên báo về số phận
dân tộc Do Thái bị ly tán và thành Giêrusalem mãi mãi không còn đá chồng trên
đá, thì làm sao Đức Giêsu lại không khóc về dân tộc của Ngài được ?! Vì Ngài
cũng có bản tính người như bà Rakel.
II. LÝ DO ĐỨC GIÊSU KHÓC THEO TIN MỪNG GIOAN (11,35).
Đặc
biệt thánh sử Gioan khi viết Tin Mừng, ông nhấn mạnh về thiên tính của Đức Giêsu : Đức Giêsu đứng trước cuộc Khổ Nạn, Ngài
không run sợ như tác giả Luca ghi : “Toát
mồ hôi máu”, mà Ngài rất oai hùng khi nhìn đoàn quân Roma kéo đến vây bắt
Ngài, chúng đứng trước mặt Ngài mà không biết Ngài là Giêsu Nazareth để bắt, dù
hôm đó có Giuđa dẫn đầu. Ngài hỏi chúng : “Các
ngươi đi tìm ai ?” Chúng thưa : “Chúng
tôi đi tìm ông Giêsu Nazareth”. Ngài nói : “Này Ta đây”. Chúng liền giật lùi và bổ ngửa ra hết (x Ga 18,3-6),
lúc ấy Đức Giêsu có quyền đạp trên chúng mà đi, nhưng Ngài đã cho phép chúng
đứng dậy để bắt Ngài.
Đức
Giêsu có bản tính Thiên Chúa oai hùng như thế, nên Ngài biết trước sự chiến
thắng của Ngài, do đó khi Ngài đứng khóc trước mộ Ladarô (x Ga 11,35) là vì quá
vui mừng, như Ngài thưa với Chúa Cha : “Lạy
Cha, Con biết Cha hằng nhận lời Con là sẽ cho Ladarô sống lại, để cho mọi người
nhận biết Cha đã sai Con đến để cứu họ,nên Con hằng tạ ơn Cha” (x Ga
11,41b-44). Đó là lý do Ngài đã xác định với bà Matta, chị của Ladarô đã chết :
“Em con sẽ sống lại, phục sinh và sự sống
chính là Ta” (Ga 11,23-25). Đây là sự chiến thắng của Đấng Toàn Năng, chỉ
duy mình Chúa Giêsu đánh gục thần chết, giải thoát những ai tin vào Ngài thì
được sống muôn đời, còn niềm vui nào lớn lao hơn ! Vì Ngài quá vui mừng mà
khóc, bởi Ngài đã nói với các môn đệ rằng : “Ta mừng, vì không có Ta ở bên Ladarô, nên Ladarô
ngủ (chết) và Ta sẽ đến đánh thức ông ấy dậy” (Ga 11,11-15).
Tuy
nhiên ông Gioan cũng không phủ nhận Đức Giêsu có bản tính loài người, nên Ngài
khóc là khóc cho dân của Ngài, vì sau phép lạ Ngài làm cho Ladarô sống lại,
Ngài không làm một phép lạ nào nữa, vì đây là dấu Ngài đã đạt mục đích vào trần
gian để làm cho loài người dù chết cách nào cũng được sống lại, ai tin vào Ngài
thì khỏi phải chết và được sống muôn đời. Ta biết Tin Mừng Gioan chỉ ghi bảy
phép lạ Đức Giêsu thực hiện, trở thành dấu chỉ về cuộc sáng tạo mới, mở đầu Đức
Giêsu hóa nước thành rượu nho (x Ga 2,1t), thứ hai là Đức Giêsu cho con ông sĩ
quan ngoại giáo thoát tay tử thần (x Ga 4,43t), thứ ba là Đức Giêsu chữa lành
người bất toại 38 năm nằm bên bờ hồ có năm dãy hành lang (x Ga 5,1t), thứ bốn
là Đức Giêsu hóa bánh nuôi dân ăn no nê (x Ga 6,1t), thứ năm là Đức Giêsu đi
trên mặt nước đến với thuyền các môn đệ gặp sóng gió (x Ga 6,16t), thứ sáu là
Đức Giêsu chữa lành cho người mù từ thuở mới sinh (x Ga 9,1t), cuối cùng, thứ
bảy là Đức Giêsu cho Ladarô đã an táng bốn ngày trong mồ được sống lại (x Ga
11). Nhìn vào bố cục bảy phép lạ trên, ta thấy mở đầu nước hóa thành rượu nho
là dấu chỉ nhờ nước Thánh Tẩy ta được tháp vào Đức Giêsu là cây nho thật (x Ga
15), để được sống đời đời, qua dấu chỉ Đức Giêsu cho anh Ladarô sống lại. Chỉ
khi nào loài người được Chúa cho từ cõi chết sống lại, công trình sáng tạo của
Thiên Chúa mới hoàn hảo.
Nhưng tiếc rằng những người Do Thái chứng kiến phép
lạ ấy, nhất là những vị kỳ mục của dân lại tỏ ra phẫn uất, quyết liệt loại trừ
Ngài và đòi giết luôn cả Ladarô (x Ga 11,45-53 ; 12,10). Họ đã loại trừ Giêsu
là nguồn sống thì không thể có sự sống nơi họ (x 1Ga 5,12). Ông Gioan lại ghi
Đức Giêsu có lòng thương cảm chị em Matta và Maria, cùng với những người thân
của gia đình này đang khóc nức nở trước mộ Ladarô, làm cho Đức Giêsu bực dọc tâm thần và xao xuyến cả mình, vì Ngài nhìn thấy nhiều người chưa
đủ Đức Tin nhận ra Ngài có quyền cho kẻ chết sống lại, họ tưởng Đức Giêsu khóc
chỉ vì thương gia đình Matta và Maria, nên họ nói với nhau : “Ngài thương ông ấy dường nào” (x Ga
11,36). Nhưng câu đó lại trở nên lời tiên báo : Đức Giêsu thương Ladarô vì dẫu
Ngài cho anh sống lại, thì các đầu mục Do Thái lại quyết định giết luôn cả
Ladarô (x Ga 12,10). Ladarô trước đã chết vì bệnh, thì không sợ bằng sau này
chết vì sự ghen tỵ của bọn đầu mục đối với Đức Giêsu. Với sự lỳ lợm của các đầu
mục Do Thái như thế, chứng tỏ dân tộc của Ngài không đón nhận được sự sống, đó
là lý do Ngài khóc !
Vậy
cả hai tác giả Luca và Gioan khi ghi nhận Đức Giêsu khóc, hai ông đã chung một
ý là với bản tính nhân loại,Ngài thương dân tộc của Ngài,vì ngay từ thời vua
Antiôkhô, nhiều người Do Thái đã bỏ Luật Môsê đi tôn thờ các ngẫu tượng của dân
ngoại, mà vua này đã ra lệnh cho toàn dân phải tuân theo, ai làm theo lệnh vua
thì được sống và hưởng nhiều bổng lộc, kẻ bất tuân thì sẽ bị giết. Chỉ có ông
Máttítgia, là đầu mục Do Thái, cùng các con của ông thì quyết tâm không bỏ Luật
Chúa ban qua ông Môsê, dù vua dụ dỗ và hứa ban cho ông Máttítgia, nếu ông làm theo
ý vua thì được chức vụ cao trong triều đình và hưởng nhiều vàng bạc châu báu.
Nhưng ông Máttítgia ý thức mình là thủ lãnh của dân Do Thái, ông thề không theo
lệnh vua để hưởng bổng lộc mà làm cớ cho dân tộc ông bắt chước. Lúc ấy ông nhìn
thấy có người Do Thái ra tế lễ ngẫu thần ở Môđin, lòng ông sôi sục vì có kẻ lỗi
Luật Môsê, ông xông vào hạ sát hắn, và phá hủy tế đàn, rồi ông cùng cả gia đình
với một số người còn trung thành với Luật Môsê trốn lên núi (x 1Mcb 2,15-29 :
BĐ năm lẻ). Thế mà Đức Giêsu nhìn các đầu mục Do Thái vào thời của Ngài chẳng ai
còn có Đức Tin giống ông Máttítgia, tổ phụ các thủ lãnh của họ, thì những mục
tử độc ác này sẽ dẫn toàn dân Do Thái sa xuống vực thẳm chung cư với tử thần,
làm sao Đức Giêsu không khóc thương họ được ?!
Lối
sống Đạo của một người Do Thái tiến ra tế thần Môđin theo lệnh vua Antiôkhô,
chẳng khác nào lối sống đạo của dân Do Thái chối từ không tôn thờ Chúa Giêsu
Phục Sinh, mà cứ bám vào lối tế tự theo Luật Môsê, làm cho ông Gioan khóc nức
nở, vì không ai xứng đáng mở Cuốn Sách (Tân Ước), và nhìn vào đó hòng được cứu
độ (x Kh 5,4 : BĐ năm chẵn). Mãi cho tới khi “sư tử xuất thân từ chi tộc Giuđa” (Tin Mừng Marco được công bố),
chồi non của Đavit đã chiến thắng. Người sẽ mở Cuốn Sách và bảy ấn niêm phong
(x Kh 5,5: BĐ năm chẵn). Thực vậy, Tin Mừng của Marco được công bố đầu tiên vào
khoảng năm 60. Nhờ Tin Mừng này mà loài người nhận biết Con Thiên Chúa là Chúa
Giêsu Phục Sinh, Đấng đầy sức mạnh (bảy sừng) và là Đấng khôn ngoan (bảy mắt),
“tức là bảy thần khí của Thiên Chúa đã
được sai đi khắp mặt đất. Con Chiên đến lãnh cuốn sách từ tay hữu Đấng ngự trên
ngai, Khi Con Chiên đã lãnh cuốn sách, thì bốn Con Vật và hai mươi bốn vị Kỳ
Mục phủ phục xuống trước mặt Con Chiên, mỗi vị tay cầm đàn, tay nâng chén vàng
đầy hương thơm, tức là những lời cầu nguyện của dân thánh. Các vị hát một bài
ca mới rằng: "Ngài xứng đáng lãnh nhận cuốn sách và mở ấn niêm phong, vì
Ngài đã bị giết và đã lấy máu đào chuộc về cho Thiên Chúa muôn người thuộc mọi
chi tộc và ngôn ngữ, thuộc mọi nước, mọi dân.Ngài cũng làm cho họ thành một
vương quốc, thành những tư tế, để phụng thờ Thiên Chúa chúng ta, và họ sẽ làm
chủ mặt đất này" (Kh 5,6-10 : BĐ năm chẵn).
Vì từ khi Con Thiên Chúa vào đời, Chúa Cha chỉ nhận
của lễ “Con Chiên Thiên Chúa, Đấng đã
hiến mạng cứu loài người tội lỗi” (Ga 1,29). Vì thế, Chúa Giêsu đã nói với
người phụ nữ Samari : “Giờ đã đến -và
chính là lúc này đây- giờ những người thờ phượng đích thực sẽ thờ phượng Chúa
Cha trong thần khí và sự thật, vì Chúa Cha tìm kiếm những ai thờ phượng Người
như thế” (Ga 4,23). Kẻ bỏ Thiên Chúa mà tế thần Môđin làm cho ông Mattítgia
sôi máu, ông xông vào hạ sát hắn, và phá hủy tế đàn thờ ngẫu tượng (x 1Mcb 2,
23-24 : BĐ năm lẻ). Thì vào thời Tân Ước, Chúa khiến cho quân Roma tức giận xông
lên giết tất cả dân tộc Do Thái, phá tan Đền Thờ Giêrusalem, không còn hòn đá
nào chồng trên hòn đá nào (x Lc 19,44: Tin Mừng), để chấm dứt lối tế tự của Do
Thái giáo vào năm 70 ! Biến cố đau thương này lại trở thành dấu chỉ vào ngày cánh
chung,Chúa để cho Satan sôi máu diệt hết mọi kẻ chống đối Kitô giáo, không muốn
kết hợp với Chúa Giêsu Phục Sinh, để tôn thờ Thiên Chúa cho phải đạo. Bởi vì,
vào ngày cánh chung, Chúa chỉ cứu những ai đã từng tham dự Phụng Vụ của Hội
Thánh mà cầu nguyện “lạy Chúa Kitô, Ngài
đã làm cho chúng con thành một vương quốc, thành những tư tế, để phụng thờ
Thiên Chúa chúng con” (Kh 5,10 : ĐC năm chẵn).
Vậy
“ngày hôm nay anh em chớ cứng lòng, nhưng
hãy nghe tiếng Chúa” (Tv 95/94, 7b-8a : Tung Hô Tin Mừng), để sống Đạo theo
gương ông Máttítgia, đó là “người sống
đời hoàn hảo, Chúa cho hưởng ơn cứu độ của Ngài” (Tv 50/49, 23b : ĐC năm
lẻ).
Một
nhà sinh vật học, khi đi tìm kiếm các sinh vật để khảo cứu,ông đi vào một hang
động có rất nhiều dơi đậu hai bên vách
đá, nhưng ông không thấy những con dơi lớn, ông hiểu là chúng đi kiếm ăn,chỉ
còn lũ dơi con đang bám tòng teng trên vách đá. Ông bắt tất cả các dơi con về
nghiên cứu. Hôm sau trở lại hang, ông vô cùng kinh ngạc khi thấy xác những con
dơi lớn nằm la liệt. Ông lại lượm xác chúng về khảo cứu, xem lý do nào chúng
chết hàng loạt như thế! Cuối cùng ông cũng khám phá ra hai điều :
- Những con dơi bị chết
đều là những dơi mẹ.
- Giải phẫu chúng thì thấy
tất cả đều bị đứt ruột mà chết.
Dơi mẹ biết thương con
như thế, cũng chỉ vì Thiên Chúa đã phú bẩm cho nó. Vậy Thiên Chúa chính là Tình
Yêu (1Ga 4,8), thì Ngài còn thương chúng ta hơn biết mấy khi Satan bước vào
trần gian, thu góp những kẻ chống đối Đức Giêsu đưa về sào huyệt của nó !
THUỘC LÒNG
Anh em chẳng biết rằng anh em là Đền Thờ
của Thiên Chúa, và Thánh Thần Thiên Chúa ngự trong anh em sao? Vậy
ai phá huỷ Đền Thờ Thiên Chúa, thì Thiên Chúa sẽ huỷ diệt kẻ ấy. Vì Đền Thờ
Thiên Chúa là nơi thánh, và Đền Thờ ấy chính là anh em (1Cr 3,16-17).
Vui với người vui khóc với người khóc
(Rm 12,15).
http://phaolomoi.net
Lm GIUSE
ĐINH QUANG THỊNH