Kinh Thánh
Thời kỳ
Sách
Chương
 
      Lm. Trịnh Ngọc Danh
Nghe Nhạc Thánh Ca trên điện thoại android
Bài viết
Đức Hồng y Tauran: “Tôn giáo thuộc về bản chất con người”

Đức Hồng y Tauran: “Tôn giáo thuộc về bản chất con người”


fr.zenit.org, Anita Bourdin, 2017-08-08

Ngày 9 tháng 8, báo Osservatore Romano đăng bài suy tư “Tôn giáo thuộc về bản chất con người” của Đức Hồng y người Pháp Jean-Louis Tauran, Chủ tịch Hội đồng giáo hoàng Đối thoại Liên tôn.

Theo ngài, “loại tôn giáo ra khỏi lý trí thì cũng như chặt cụt con người được dựng lên theo hình ảnh của Chúa”. Ngài nhắc lại, “không thể tồn tại sự bất đồng giữa đức tin và lý trí”. Chúng ta tìm lại ở đây một vài hài hòa của bài diễn văn Đức Bênêđictô XVI đọc ở Ratisbonne thang 9 năm 2006.

“Chúng ta phải tự hào về đức tin của mình, vì nó mang lại tương lai cho nhân loại”, Hồng y Tauran nói lên vai trò của đối thoại liên tôn: “Phải luôn bắt đầu bằng việc tuyên xưng đức tin riêng của mình, tránh mọi chủ thuyết hỗn hợp”: “Kitô giáo không phải là một tư tưởng, nhưng là một thực tế: Chúa xuống thế làm người”. Một đối thoại “trong sự thật” và để “cổ động cho một thế giới có công chính và hòa bình ngự trị”.

Một thế giới hung bạo và bấp bênh

Đức Hồng y khởi đi từ sự ghi nhận, “Chúng ta sống trong một thế giới hung bạo, một thế giới giết người. Một thế giới bấp bênh: mọi sự có thể xảy ra, chỉ cần nghĩ đến hiểm nguy của nạn khủng bố. Thật khó để dự đoán cái gì sẽ xảy ra cho thế kỷ 21. Nhiều chính trị gia đi tìm ý tưởng và rất nhiều bạn đồng hành của chúng ta tự hỏi, liệu có một phòng kiểm soát không. Người ta tự hỏi không biết Quốc gia có bảo đảm được an ninh xã hội và bảo tồn tạo dựng được không.”

Đức Hồng y Tauran đặt câu hỏi: “Trong thế giới này, người ta còn có thể tin vào Chúa không? Người ta còn có thể tin vào con người không?” Ngài trả lời: “Chúng ta đầy cả nghịch lý.”

Ngài giải thích: “Thế giới kỹ thuật này chỉ thấy sức mạnh ở những gì hữu ích cũng là thế giới mà trong đó có sự đa dạng văn hóa và tôn giáo, có cả sự vắng bóng tôn giáo, thiếu sự trao truyền các giá trị và các khuôn mẫu đã làm cho tính “thần thiêng” và một vài hình thức siêu việt được trở lại dưới các ống kính.”

Ngài cũng cho thấy: “Dù việc giữ đạo xuống dốc, ít nhất là ở các xã hội phương Tây, thì chắc chắn người ta sẽ hiểu hơn, rằng không hiểu được thế giới ngày nay nếu bỏ qua tôn giáo”.

Một tầm nhìn mở ra cho đối thoại

Trong bối cảnh này, Hồng y Tauran mô tả quan điểm của tín hữu kitô: “Người kitô hữu thuộc về thế giới này, một thế giới được Thiên Chúa yêu thương, được Thiên Chúa vun trồng cho họ và phải được nở hoa. Trước hết họ nhận biết mình là tạo vật và vì thế họ thuộc về Chúa. Một tạo vật được gọi để thấy Chúa. Các tầm nhìn của con người và của thế giới có thể đưa đến sự đương đầu và đưa đến đối thoại.”

Nhưng thế giới này cũng có các vấn đề hiện sinh đích thực: “Vì sự bấp bênh làm xáo trộn đời sống chúng ta – chỉ cần nghĩ đến các chiến tranh lớn nhỏ hiện nay, đến nạn ô nhiễm môi trường, đến cơn khủng hoảng kinh tế, đến sự phá sản các hệ thống kinh tế ở cuối thế kỷ vừa qua -, chúng ta, những người thuộc thế hệ này chất vấn các vấn đề hiện sinh thiết yếu, đâu là ý nghĩa của sự sống và của cái chết. Rất nhiều người trẻ bối rối trước sự lầm đường mà các cuộc chinh phục về mặt khoa học hiện nay mang lại, chúng không được kiểm soát và định hướng đúng. Chúng ta nhận thức, chỉ có con người là tạo vật duy nhất có thể chất vấn và tự chất vấn. Đó là lương tâm – khả năng suy nghĩ về số phận mình, về ý nghĩa của sự sống và cái chết – đó là điều phân biệt con người với thực vật và súc vật.”

Chính vì vậy mà Đức Hồng y Tauran khẳng định, “tôn giáo không phải là một thông điệp đặc biệt của lịch sử”: “Nó thuộc về bản chất con người, con người mà ba câu hỏi nền tảng của triết gia người Đức Emmanuel Kant đã đặt ra luôn có giá trị: “Tôi có thể biết điều gì? Điều gì tôi phải làm? Nơi cái gì tôi có thể hy vọng?” Cần nhắc lại ở đây Tuyên ngôn của Công đồng Vatican II “Nostra aetate” (Liên lạc của Giáo hội với các Tôn giáo người Kitô giáo) về đối thoại liên tôn đã nhấn mạnh địa vị của con người trong phần mở đầu: “Con người chờ các tôn giáo khác nhau câu trả lời cho các bí ẩn ẩn chứa trong thân phận con người, mà, hôm qua cũng như hôm nay luôn xáo động sâu xa trong tâm hồn con người: Con người là gì? Đâu là ý nghĩa và mục đích đời sống? Điều thiện là gì và tội lỗi là gì? Đâu là nguồn gốc và mục đích của đau khổ? Đâu là con đường để đến hạnh phúc thật sự? Và cái chết? […]”.

Đức tin và lý trí

Quả vậy, theo Đức Hồng y Tauran, “loại tôn giáo ra khỏi lý trí thì cũng như chặt cụt con người được tạo dựng theo hình ảnh của Chúa”: “Đức tin là hành động tin tưởng vào Thiên Chúa hoặc tin vào một tín điều với sự gắn kết sâu đậm của tâm trí tạo ra sự xác tín. Ngược lại, lý trí là khả năng suy nghĩ và đánh giá đúng thực tế. Liên kết hai từ này, đức tin và lý trí, có thể được diễn giải như một sự thỏa thuận giữa hai chuyện hay như một sự chống đối.”

Ngài nhắc lại, kiến thức con người có “hai nguồn có thể”: lý trí và đức tin, nhưng đó là “hai thực tại khác biệt”. “Bằng trí tuệ của mình, con người có thể nhận biết Chúa là Đấng Tạo Hóa (Hiến chế Dei Filius, Hiến chế Tín lý về Đức tin công giáo), trong khi đức tin cung cấp một phương thức nhận biết khác, có nghĩa là đón nhận một mạc khải. Chính Chúa mạc khải, chứ không phải con người đi tìm Chúa. Và đó là lý do tại sao đạo công giáo không phải là một tôn giáo, mà là một mạc khải. Vì thế, đức tin là nguồn tri thức, nhưng theo một cách khác. Dù nó phải ở trên lý trí, không có bất đồng giữa đức tin và lý trí vì chính Chúa mạc khải các mầu nhiệm của Ngài và truyền đạt đức tin và Ngài cũng tỏa lan trong tinh thần con người ánh sáng của lý trí.”

Hồng y Tauran bác bỏ sự khẳng định cho rằng có thể đặt đức tin và lý trí chống nhau: “Chúng ta sẽ nói rằng, đức tin vừa cùng một lúc là gặp gỡ, vừa là sứ điệp, nối lại con người mà một cách tự nhiên là “người có khả năng biết Chúa”. Nhưng phải tránh hai thái cực: thái cực đầu tiên là thuyết duy tín, đặt tôn giáo dựa trên xúc cảm; thái cực thứ nhì là thuyết duy lý, khẳng định rằng chỉ có các thực tế giải thích một cách khoa học và chứng minh được mới đáng tin.”

Tự do của con người

Hồng y Tauran tóm lại: “Thiên Chúa không phải là kết quả của một phương trình, vì trong trường hợp này, chúng ta sẽ buộc phải tin, và Chúa không phải là bất hợp lý: Ngài xuyên-lý tính và tôi còn nói hơn nữa, Ngài là nhất quán. Thần học gia Newman đã viết: “Ngàn khó khăn không không tạo một nghi ngờ.” Và triết gia Pascal nhấn mạnh rằng: “Thiên Chúa cho con người khá đủ ánh sáng để tin nơi Ngài và khá đủ bóng tối để không bị buộc phải tin. Và đó là vấn đề tự do của con người đứng trước Thiên Chúa.”

Hồng y cũng phân tích về sự tách rời được điều hành bởi một thế giới bị chi phối bằng công nghệ: “Thế giới kỹ thuật chúng ta sống đã tách rời con người với chiều kích tâm linh. Con người cảm thấy mình cực kỳ mạnh. Ngay cả nó có thể tự tạo ra nó. Hiệu năng và lợi nhuận đã thay thế cho việc đi tìm sự thật. Tách khỏi kitô giáo, khoa học trở nên món quà chết người vì nó có thể được dùng vào mục đích không phù với sự phục vụ đúng cho nhân loại.”

Một tương lai cho nhân loại

Ngược lại Hồng y Tauran nhấn mạnh: “Chúng ta phải tự hào về đức tin của mình, vì nó cho nhân loại một tương lai. Chúng ta, những người kitô hữu, chúng ta được yêu và được tha thứ, chúng ta không thể giữ riêng cho mình ánh sáng đã soi chiếu cho chúng ta. Chúng ta có bổn phận mang ánh sáng đó đến cho tất cả mọi người, đặc biệt với những người sống không hy vọng. Chính vì thế mà chúng ta cần phải được chuẩn bị về mặt thiêng liêng và đó là đòi hỏi thứ hai mà tôi thấy: biết làm cho đức tin mình có lý. Sau đòi hỏi đầu tiên là: tự hào mình là kitô hữu, đón nhận sự cao cả của mầu nhiệm.”

Chính trong bối cảnh này mà Hồng y đặt đối thoại liên tôn vào trọng tâm của Giáo hội: “Trong các xã hội đa nguyên chúng ta sống, đối thoại liên tôn là điều thiết yếu. Nó luôn bắt đầu bằng sự tuyên xưng đức tin riêng của mình, tránh mọi chủ thuyết hỗn hợp. Điều này giả định rằng, chúng ta có một nền văn hóa tôn giáo giúp chúng ta đối thoại trong sự thật. Chúng ta phải vượt qua giáo lý của thời thơ ấu của mình. Thật ngạc nhiên khi chúng tôi nói chuyện với các nhà lãnh đạo lớn của xã hội, những người có văn hóa và được trau dồi, nhưng về mặt tôn giáo họ thật không biết gì, thường khi họ còn giữ một cái nhìn ấu trĩ về đức tin.”

Nền tảng của văn hóa

Đức Hồng Y Tauran đưa ra một đòi hỏi thứ ba: “Sống Giáo Hội như một sự hiệp thông” ngài giải thích: “Các vụ tai tiếng, các phản bội của tín hữu kitô không bao giờ che giấu sức mạnh của đức ái. Chỉ cần nghĩ đều các công việc đáng khâm phục của các nữ tu ở các nước thứ ba, thứ tư trên thế giới. Đây không phải là lúc than vãn nhưng là lúc của sứ mệnh. Chúng ta không được áp đặt, nhưng đề nghị một Thiên Chúa mà chúng ta tin tưởng, người đã ban cho chúng ta hai món quà tuyệt vời: một trí tuệ để hiểu, và một trái tim để yêu thương. Đừng nghĩ rằng ngày nay Chúa không còn quan tâm đến loài người. Chúng ta không thể nào tránh Chúa Kitô được. Chúng ta gặp Chúa Kitô qua Giáo Hội. Việc tìm kiếm Thiên Chúa và sự sẵn lòng lắng nghe Chúa là nền tảng của một nền văn hoá đích thực và xác thực.”

Trong phần kết luận, Hồng y Tauran trở lại với vấn đề tương lai của nhân loại, ngài tự hỏi: “Đâu là sự đóng góp của chúng ta cho thế giới ngày mai? Liệu chúng ta có phải là người tạo cảm hứng hay chỉ đơn giản là người đồng hành?” “Thật khó để trả lời, ngài nhận xét trước khi đưa ra xác tín của mình: Kitô giáo chưa bao giờ phổ quát như ngày nay, biết dùng lợi ích của toàn cầu hóa – tự thân là một điều tích cực – để qua lời, qua sáng kiến đặc biệt mang đến cho kitô giáo tính mới lạ và điều kỳ diệu. Kitô giáo không phải là một tư tưởng nhưng một thực tế: Chúa xuống thế làm người. Giáo hội sẽ tiếp tục làm cho con người suy nghĩ về chính mình, người “đãng trí” của thế kỷ này, về ơn gọi của mình, về sự cần thiết phải cổ động để thế giới được sống trong công chính và trong hòa bình. Chúng ta có một vai trò để đảm nhiệm. Tôi nghĩ đặc biệt đến các người trẻ, là những người thường xuyên là “người kế thừa nhưng không có gia tài để hưởng”, là “người xây cất nhưng không có mẫu để xây”. Chúng ta, kitô hữu, chúng ta sẽ làm điều này, với Giáo hội và trong Giáo hội.”

Marta An Nguyễn dịch

Lên đầu trang
Các bài khác cùng chủ đề: