Kinh Thánh
Thời kỳ
Sách
Chương
 
      Lm. Trịnh Ngọc Danh
Bài giảng
THỨ SÁU SAU CHÚA NHẬT 19 THƯỜNG NIÊN - NĂM CHẴN
Âm thanh
Video
Video
Video
Video
Video
BÀI ĐỌC 1 VÀ 2 (NẾU CÓ)
 BÀI ĐỌC : Ed 16,1-15.60.63

            1 Có lời ĐỨC CHÚA phán với tôi rằng : 2 Hỡi con người, hãy cho Giê-ru-sa-lem biết các điều ghê tởm của nó.3 Ngươi sẽ nói: ĐỨC CHÚA là Chúa Thượng phán thế này với Giê-ru-sa-lem: Gốc gác ngươi, dòng họ ngươi phát xuất từ đất Ca-na-an; cha ngươi là người E-mô-ri, mẹ ngươi là người Khết.4 Lúc chào đời, ngày mới sinh ra, ngươi không được ai cắt rốn cũng không ai lấy nước tắm rửa cho sạch, chẳng được ai xát muối và lấy tã bọc cho.5 Không người nào ái ngại đưa mắt nhìn ngươi mà làm cho ngươi chỉ một trong những điều ấy vì xót thương ngươi. Ngày mới sinh ra, ngươi bị quẳng ra giữa đồng vì ai cũng ghê tởm ngươi.

            6 Ta đi ngang qua chỗ ngươi và thấy ngươi giẫy giụa trong máu. Thấy ngươi mình đầy máu me, Ta đã phán với ngươi: "Cứ việc sống! "7 Ta làm cho ngươi nẩy nở như hoa ngoài đồng. Ngươi đã nẩy nở, lớn lên và thành cô thiếu nữ với bộ ngực nở nang, mái tóc mượt mà, nhưng ngươi vẫn trần truồng, không mảnh vải che thân.8 Ta đi ngang qua chỗ ngươi và thấy ngươi. Này ngươi đã đến tuổi, tuổi yêu đương. Ta đã lấy vạt áo của Ta phủ lên để che thân thể loã lồ của ngươi. Ta đã thề nguyền và lập giao ước với ngươi - sấm ngôn của ĐỨC CHÚA là Chúa Thượng - và ngươi thuộc về Ta.9 Ta đã lấy nước tắm rửa, gột sạch máu me, rồi xức dầu thơm cho ngươi.10 Ta đã cho ngươi mặc đồ gấm vóc, đi giày da mềm, thắt khăn vải gai mịn và khoác toàn tơ lụa.11 Ta đã lấy đồ trang sức tô điểm cho ngươi: đeo xuyến vào tay, đeo kiềng vào cổ.12 Ta đã lấy khuyên xỏ vào mũi ngươi, đeo hoa tai cho ngươi và lấy triều thiên rực rỡ đội lên đầu ngươi.13 Đồ trang sức của ngươi đều là vàng bạc, y phục của ngươi là vải gai mịn, tơ lụa và gấm vóc. Ngươi được nuôi bằng tinh bột lúa miến, mật ong và dầu. Ngươi đã nên xinh đẹp tuyệt trần và xứng ngôi hoàng hậu.14 Giữa muôn dân nước, ngươi được nổi tiếng vì nhan sắc của ngươi; nhan sắc đó tuyệt vời nhờ ánh huy hoàng của Ta chiếu toả trên ngươi, - sấm ngôn của ĐỨC CHÚA là Chúa Thượng.

15 Thế mà ngươi đã cậy có nhan sắc, ỷ vào danh tiếng của ngươi để đàng điếm và hoang dâm với mọi khách qua đường: ngươi thuộc về chúng.

60 Còn Ta, Ta sẽ nhớ lại giao ước đã lập với ngươi thời ngươi còn thanh xuân. Ta sẽ thiết lập với ngươi một giao ước vĩnh cửu 63 để ngươi nhớ lại mà lấy làm xấu hổ và, trong lúc phải tủi nhục, ngươi sẽ không còn mở miệng nói gì được nữa, khi Ta tha thứ cho ngươi tất cả những việc ngươi đã làm - sấm ngôn của ĐỨC CHÚA là Chúa Thượng.

ĐÁP CA : Is 12

Đ.        Giờ đây cơn giận đã nguôi rồi, và Chúa lại ban niềm an ủi. (c 1c)

2 Đây chính là Thiên Chúa cứu độ tôi, tôi tin tưởng và không còn sợ hãi,bởi vì ĐỨC CHÚA là sức mạnh tôi,là Đấng tôi ca ngợi, chính Người cứu độ tôi.3 Các bạn sẽ vui mừng múc nước tận nguồn ơn cứu độ.

4bcd Hãy tạ ơn Chúa, cầu khẩn danh Người,vĩ nghiệp của Người, loan báo giữa muôn dân,và nhắc nhở: danh Người siêu việt.

5 Đàn ca lên mừng Chúa,vì Người đã thực hiện bao kỳ công; điều đó, phải cho toàn cõi đất được tường.6  Dân Xi-on, hãy reo hò mừng rỡ,vì giữa ngươi, Đức Thánh của Ít-ra-en quả thật là vĩ đại!

BÀI TIN MỪNG
 TUNG HÔ TIN MỪNG : x 1Tx 2,13

            Hall-Hall :  Anh em hãy đón nhận Lời Thiên Chúa, không phải như lời người phàm,  nhưng như Lời Thiên Chúa, đúng theo bản tính của Lời ấy. Hall.

TIN MỪNG : Mt 19, 3-12

            3 Một hôm, có mấy người Pha-ri-sêu đến gần Đức Giê-su để thử Người. Họ nói: "Thưa Thầy, có được phép rẫy vợ mình vì bất cứ lý do nào không? "4 Người đáp: "Các ông không đọc thấy điều này sao: "Thuở ban đầu, Đấng Tạo Hoá đã làm ra con người có nam có nữ",5 và Người đã phán: "Vì thế, người ta sẽ lìa cha mẹ mà gắn bó với vợ mình, và cả hai sẽ thành một xương một thịt."6 Như vậy, họ không còn là hai, nhưng chỉ là một xương một thịt. Vậy, sự gì Thiên Chúa đã phối hợp, loài người không được phân ly."7 Họ thưa với Người: "Thế sao ông Mô-sê lại truyền dạy cấp giấy ly dị mà rẫy vợ? "8 Người bảo họ: "Vì các ông lòng chai dạ đá, nên ông Mô-sê đã cho phép các ông rẫy vợ, chứ thuở ban đầu, không có thế đâu.9 Tôi nói cho các ông biết: Ngoại trừ trường hợp hôn nhân bất hợp pháp, ai rẫy vợ mà cưới vợ khác là phạm tội ngoại tình."

10 Các môn đệ thưa Người: "Nếu làm chồng mà phải như thế đối với vợ, thì thà đừng lấy vợ còn hơn."11 Nhưng Người nói với các ông: "Không phải ai cũng hiểu được câu nói ấy, nhưng chỉ những ai được Thiên Chúa cho hiểu mới hiểu.12 Quả vậy, có những người không kết hôn vì từ khi lọt lòng mẹ, họ đã không có khả năng; có những người không thể kết hôn vì bị người ta hoạn; lại có những người tự ý không kết hôn vì Nước Trời. Ai hiểu được thì hiểu."

 

BÀI GIẢNG
 HÔN NHÂN CÔNG GIÁO

 

            Để nắm vững giáo lý Hôn Nhân Công Giáo, ta hãy lắng nghe và tìm hiểu Đức Giêsu trả lời thắc mắc về hôn nhân của người Biệt phái và môn đệ Ngài.

A. ĐỨC GIÊSU TRẢ LỜI THẮC MẮC CHO NGƯỜI BIỆT PHÁI ĐẶT CÂU HỎI :

            - Về vấn đề ly dị.

            - Về vấn đề ông Môsê cho phép ly dị.

    I. VỀ VẤN ĐỀ LY DỊ.        

            Người Biệt phái đến gặp Đức Giêsu và hỏi thử Ngài : "Thưa Thầy, có được phép rẫy vợ mình vì bất cứ lý do nào không? "Người đáp: "Các ông không đọc thấy điều này sao: "Thuở ban đầu, Đấng Tạo Hoá đã làm ra con người có nam có nữ", vì thế Người đã phán: "Người ta sẽ lìa cha mẹ mà gắn bó với vợ mình, và cả hai sẽ thành một xương một thịt." Như vậy, họ không còn là hai, nhưng chỉ là một xương một thịt. Vậy, sự gì Thiên Chúa đã phối hợp, loài người không được phân ly" (Mt 19, 3-6 : Tin Mừng).

            Như vậy câu trả lời của Đức Giêsu : cấm không được ly dị vì hai lý do

            1/ Một vợ một chồng Chúa đã thiết định từ thuở ban đầu là tốt đẹp (x Mt 19,4 : Tin Mừng), loài người không được phép thay đổi ý định tốt đẹp của Thiên Chúa. Thế mà thời Cựu Ước Luật Môsê cho phép người nam lấy nhiều vợ hoặc cho phép rẫy vợ để lấy vợ khác. Nhưng Đức Giêsu xác định : “Đó không phải là ý muốn của ông Môsê, nhưng vì lòng chai dạ đá của dân mà ông Môsê phải chấp nhận, vì ông biết trái ý Chúa từ thuở ban đầu” (x Mt 19,8 : Tin Mừng), nhìn vào thực tế ,đa thê quả là gương xấu,đã gây nhiều tai họa. Cụ thể : Vua Đavid được danh là tiền thân Chúa Ki-tô, ông đã có vợ, nhưng vẫn say mê sắc đẹp vợ của ông Uria, dẫn vua đến phạm tội ngoại tình, rồi âm mưu giết Uria để cướp vợ ông (x 2 Sm 11) ; vua Salômôn dù được danh là khôn ngoan nhất trên đời, thế mà lại ngu xuẩn xây chùa miếu cho các vợ ngoại, hậu quả làm cho đất nước bị chia đôi (x 1V 11). Trong khi đó những gia đình đơn hôn vẫn nêu gương sáng như gia đình Tôbya để có nhiều điều kiện làm việc bác ái (x Sách Tôbya), và gia đình Hô-sê, ông chỉ trung thành với cô vợ điếm, ông đã trở thành dấu chỉ diễn tả tình thương của Chúa Giêsu đối với Hội Thánh Ngài (x Sách Hô-sê).

            2/ Vợ chồng diễn tả  mầu nhiệm Hội Thánh Chúa Ki-tô lữ hành. Như Lời Đức Giê-su đã nói : “Người nam sẽ bỏ cha mẹ mà luyến ái với vợ mình” (Mt 19,5a : Tin Mừng). Chân lý này Đức Giê-su muốn nói về chính Ngài : Ngài đã bỏ Cha trên trời đến trần gian muốn “cưới” lấy loài người là những người sống đức ái trong Hội Thánh (x HCHT số 14) và Chúa muốn dùng đời sống hôn nhân Công Giáo phải diễn tả tình yêu giữa Chúa Kitô và Hội Thánh. Bởi đó Thánh Phaolô nói : “Chồng phải yêu thương vợ như Đức Ki-tô yêu Hội Thánh ; và vợ phải phục tùng chồng như Hội Thánh tùng phục Đức Ki-tô” (Ep 5,21t).

            Như thế vợ chồng là hình ảnh Hội Thánh lữ hành, họ trở nên dấu chỉ ơn cứu độ cho thế gian. Nhờ đó, họ giới thiệu Hội Thánh Chúa Kitô với thế gian qua đời sống gia đình của họ. Chân lý này đã được Chúa mạc khải qua lịch sử dân tộc Do Thái, là dân Ngài chọn :

F Chúa đã chọn dân Do Thái giữa muôn ngàn dân tộc.

Ông Giosuê nhắc lại bao việc lạ lùng Chúa đã dùng cánh tay uy quyền mà đưa dân tộc Do Thái về định cư miền đất hứa chảy sữa và mật: Ngay từ lúc cha của Abraham – tổ phụ Do Thái – còn thờ các ngẫu thần, thì Chúa đã chọn ông Abraham, cho ông sinh Isaac trong tuổi già. Dòng giống này được Giuse đưa sang Ai Cập định cư, đời sống của họ rất phồn thịnh. Nhưng khi ông Giuse chết, đế quốc Ai Cập bắt dân Do Thái làm nô lệ. Chúa dùng bàn tay ông Môsê đánh phạt dân Ai Cập và đưa dân về chiếm miền đất chảy sữa và mật (x Xh 3,8), đất của bao dân tộc hùng mạnh hơn Do Thái. Ông Balac thấy dân Do Thái hùng mạnh nên nhờ thầy tướng số Bilơam chúc dữ, nhưng Chúa lại dùng ông Bilơam chúc phúc cho Do Thái thoát khỏi tay Balac. Cụ thể như dân Do Thái thấy Chúa dùng ong bầu đuổi hai vua Êmôri cho khuất mắt, để dành đất cho Do Thái, họ không vất vả khai phá mà có thành quách lớn, những vườn nho, vườn ô liu không trồng mà được ăn trái (Gs 24,1-13: Bài đọc năm lẻ). Vì “muôn đời Chúa vẫn trọn tình thương” (Tv 136/135 : ĐC năm lẻ).

F Chúa không rẫy từ dân Do Thái dù họ phạm tội.

Chân lý này Chúa đã diễn tả qua miệng ngôn sứ Êdêkien: “Hỡi con người, hãy cho Giê-ru-sa-lem (nơi Thánh thờ phượng Chúa) biết các điều ghê tởm của nó, gốc gác của nó là dòng họ xuất phát từ đất Canaan, cha nó là người Êmori, mẹ nó là người Khết. Lúc chào đời không ai cắt rốn,không ai tắm rửa, cũng không ai lấy tã bọc cho nó, nó bị quăng ra giữa đồng vì ai cũng ghê tởm nó. Ta đi ngang qua thấy nó giãy giụa trong máu, thấy nó mình đầy máu me, Ta đã phán với nó : “Cứ việc sống”, Ta làm cho nó nảy nở như hoa ngoài đồng, nó đã lớn và thành thiếu nữ với bộ ngực nở nang, mái tóc mượt mà, nhưng nó vẫn là kẻ trần truồng, không mảnh vải che thân. Ta đi ngang qua chỗ nó và thấy, và Ta nói với nó : “Nay ngươi đã đến tuổi yêu đương. Ta đã lấy vạt áo của Ta phủ lên để che thân thể lõa lồ của ngươi. Ta đã thề nguyền và lập Giao Ước với ngươi, ngươi thuộc về Ta, Ta lấy nước tắm rửa, gột sạch máu me, rồi xức dầu thơm cho ngươi. Ta đã cho ngươi mặc đồ gấm vóc, đi giày da mềm, thắt khăn vải gai mịn và khoác áo tơ lụa. Ta đã lấy đồ trang sức tô điểm cho ngươi : đeo xuyến vào tay, đeo kiềng vào cổ, đeo hoa tai cho ngươi, và lấy triều thiên rực rỡ đội trên đầu ngươi. Giữa muôn dân nước, ngươi được nổi tiếng về nhan sắc của ngươi. Thế mà ngươi đã cậy có nhan sắc, ỷ vào danh tiếng của ngươi để đàng điếm và hoang dâm với mọi khách qua đường! Còn Ta, Ta sẽ nhớ lại Giao Ước Ta đã lập với ngươi thời ngươi còn thanh xuân, Ta sẽ thiết lập với ngươi một Giao Ước vĩnh cửu, Ta đã tha thứ cho ngươi tất cả những việc ngươi đã làm” (Ed 16,1-15.60.63 : Bài đọc năm chẵn). Vì thế mà ngôn sứ Isaia nói : “Giờ đây cơn giận đã nguôi rồi và Chúa lại ban niềm an ủi” (Is 12,1c : ĐC năm chẵn).

            Do đó nếu vợ chồng Công Giáo được phép ly dị nhau, không hẳn là họ làm thiệt hại nhau, vì đôi bên đồng ý ly dị, nhưng họ vẫn là kẻ phản bội lại sứ mệnh diễn tả Hội Thánh, xúc phạm đến sự thánh thiện của Hội Thánh, bởi vì người chồng là hiện thân Chúa Kitô trong gia đình Công Giáo (x Ep 5,21t).

II. VẤN ĐỀ ÔNG MÔSÊ CHO PHÉP LY DỊ.

Có bốn lý do ly dị và cấm ly dị :

            1/ Trọng nam khinh nữ. Người Do Thái cũng như  nhiều dân tộc khác dành nhiều đặc quyền cho người nam, đó cũng là lý do khi người Do Thái viết gia phả, họ không bao giờ đưa phụ nữ vào, như gia phả của Adam (x St 4-5), gia phả của ông Noe (x St 10). Ngay tại Việt Nam, các cụ thường nói : “Nhất nam viết hữu, thập nữ viết vô!”

            2/ Dòng tộc đông đúc là phúc lộc Chúa ban. Người Do Thái muốn Chúa thực hiện lời chúc phúc cho dòng tộc của họ đông như sao trời, như cát biển (x St 22,17). Mà muốn đông con nhiều cháu thì phải lấy nhiều vợ, người vợ của họ phải là “khác nào cây nho đầy hoa trái (đông con), và bầy con tựa những cành ô-liu mơn mởn, xúm xít tại bàn ăn” (Tv 128/127,3).

            Trước đây cứ vào dịp Tết, lời đầu tiên người ta hỏi thăm nhau cũng là chúc mừng nhau trong dịp đầu Xuân : “Bác được bao nhiêu cháu ?” Câu đáp thật vui vẻ : “Cám ơn, Chúa cho vợ chồng tôi sinh được mười lăm cháu…!”

            3/ Hôn nhân thời Cựu Ước không phải là Bí tích, chỉ là hôn nhân tự nhiên, nhằm hai mục đích : giúp đỡ nhau và sinh con cái, khi họ bất hòa thì không đạt được hai mục đích trên. Đó là lý do đưa đến ly dị!

            4/ Vì lòng chai dạ đá mà ông Môsê cho phép rẫy vợ (Mt 19,8a). Đức Giê-su đã khẳng định như vậy, bởi vì ý định từ thuở ban đầu của Thiên Chúa là một vợ một chồng (x Mt 19,8b), đây là dấu chỉ Luật Cựu Ước chưa hoàn hảo. Cụ thể ông Môsê cho rẫy vợ (x Mt 19,7: Tin Mừng), Luật chỉ hoàn hảo nhờ Chúa Giêsu (x Mt 5,17). Do đó Chúa Giêsu cấm ly dị vì trái với ý Chúa đã thiết định một vợ một chồng ngay từ thuở ban đầu, nên Ngài không cho phép ai phá vỡ Luật đó (x Mt 19,4-6: Tin Mừng). Đức Giêsu nói: “hai người đã trở nên một xương một thịt, cho nên sự gì Thiên Chúa đã kết hợp, loài người không được phân ly” (Mt 19,6 : Tin Mừng). Thật là vô cùng khốn nạn nếu vợ chồng có Luật cho ly dị, chắc chắn sẽ gây xáo trộn trong gia đình, con cái không biết theo ai, và như vậy vợ chồng đã tự “xé xác” con cái mình. Và còn làm cho xã hội gia tăng thêm những kẻ phạm pháp. Ấy chưa kể là họ tự tố cáo mình là những kẻ dối trá, vì trong ngày Lễ Cưới họ đã thề trước Chúa và Hội Thánh : “Anh (Em) yêu Em (Anh) khi thịnh vượng cũng như lúc gian nan, khi ốm đau cũng như lúc mạnh khỏe, để yêu thương và tôn trọng Em (Anh) mọi ngày suốt đời Anh (Em)”.

B. ĐỨC GIÊSU TRẢ LỜI CHO CÁC MÔN ĐỆ VỀ NHỮNG KHÓ KHĂN TRONG ĐỜI SỐNG GIA ĐÌNH.

            Môn đệ hỏi : “Nếu thân phận chồng đối với vợ là như vậy, thì thà đừng cưới vợ”, thì Đức Giêsu trả lời : “Không phải mọi người  hiểu được điều này, nhưng chỉ có những ai được Thiên Chúa ban cho mới hiểu. Vì có những người yêm hoạn bởi từ lòng mẹ đã sinh ra như vậy ; và có những người yêm hoạn bởi người khác làm cho; lại có những người tự ý làm cho mình thành yêm hoạn vì Nước Trời” (Mt 19,10-12 : Tin Mừng).

-         Có người yêm hoạn từ lòng mẹ” (Mt 19,12a). Đây là một loại bệnh về sinh lý thuộc mầu nhiệm sự dữ, Đức Giê-su đã giải thích về bệnh tật người ta phải mang : “Chẳng phải tội người ấy hay cha mẹ nó đã phạm, song để nơi nó công việc Thiên Chúa được hiện tỏ” (Ga 9,3). Cụ thể người bị tật bẩm sinh không có khả  năng sinh sản, họ vẫn là người bình thường, nên không ai được chủ trương phải giải quyết sinh lý mới là người bình thường.

-         Có những người bị người khác làm cho yêm hoạn” (Mt 19,12b). Cụ thể các hoạn quan trong đền vua, chỉ vì miếng cơm manh áo mà chịu thiến!

-         Có những kẻ yêm hoạn vì Nước Trời” (Mt 19,12c). Câu này có quyền hiểu hai nghĩa:

·        Đức Giêsu nói về hàng giáo sĩ của Hội Thánh, họ tình nguyện sống độc thân để chuyên lo việc Nước Thiên Chúa (x 1 Cr 7,32). Đức Giêsu gọi những người này là thiên thần : “Con cái đời này cưới vợ lấy chồng, chứ những ai được xét là đáng hưởng phúc đời sau và sống lại từ cõi chết, thì không cưới vợ cũng chẳng lấy chồng. Quả thật, họ không thể chết nữa, vì được ngang hàng với các thiên thần. Họ là con cái Thiên Chúa, vì là con cái sự sống lại (Lc 20,34-36). Như vậy, người sống độc thân vì Nước Trời diễn tả giá trị Hội Thánh thời cánh chung.

·        Vợ chồng trung tín với  nhau theo Luật Chúa, cũng được hiểu là một loại “yêm hoạn” vì Nước Trời. Bởi lẽ một giáo sĩ phải giữ ba lời khấn : vâng lời, khó nghèo và khiết tịnh. Thế thì vợ chồng vâng lời nhau thì khó hơn một tu sĩ vâng lời Bề Trên ; vợ chồng sống khó nghèo tức là vợ sống vì chồng, chồng sống vì vợ, cả vợ chồng sống vì đàn con, nên họ chấp nhận cảnh nghèo, điều này làm họ mệt mỏi hơn giáo sĩ không được có tài sản ; vợ chồng trung thành với nhau về vấn đề sinh lý, thì còn khó hơn một giáo sĩ giữ đức khiết tịnh. Bởi thế thánh Phaolô khuyên các tín hữu nếu có thể hãy sống độc thân như ông, “vì người có vợ thì lo lắng việc đời, họ tìm cách làm đẹp lòng vợ; người độc thân thì lo việc Chúa để làm đẹp lòng Chúa” (1Cr 7,33). Và ông đề nghị : “Người có vợ hãy ở như không có, vì ngày cánh chung đã gần kề” (1Cr 7,29).

Vậy vợ chồng có sứ mệnh diễn tả đời sống Hội Thánh lữ hành, đó là mục đích chính của Hôn Nhân Kitô giáo. Khi vợ chồng có sự bất hòa, hãy nhớ Hội Thánh được gọi là trẻ thơ (x 1Ga 2,1.12.14.18.28), thì hãy sống tinh thần trẻ thơ như thánh Phaolô dạy : Có bất hòa thì như con  nít thôi (1Cr 14,20). Nhất là muốn gia đình hạnh phúc, phải thực hành lời thánh Phaolô dạy trong Bức thư ông nói về gia đình : Hãy cùng nhau đối đáp những bài Thánh vịnh, Thánh thi và Thánh ca, do Thần Khi Thiên Chúa linh hứng (Ep 5,19). Nói cách khác, gia đình, vợ chồng, con cháu luôn biết dùng Lời Chúa mà đối đáp với nhau, vì tin vào lời khuyên của thánh Tông Đồ : “Anh em hãy đón nhận Lời Thiên Chúa, không phải như lời người phàm, nhưng như Lời Thiên Chúa, đúng theo bản tính của Lời ấy” (1Tx 2,13: Tung Hô Tin Mừng). Nghĩa là đặt tất cả niềm tin vào sức mạnh Lời Chúa luôn biến dữ ra lành, lại được lãnh nhận dồi dào ân sủng của Thiên Chúa, cộng đoàn mới được bình an, hạnh phúc sung mãn.

THUỘC LÒNG.

            Chồng phải yêu thương vợ như Đức Kitô yêu Hội Thánh và vợ phải phục tùng chồng như Hội Thánh tùng phục Đức Kitô (Ep 5,21).

 

            * XIN ĐƯỢC GÓP Ý :

Nhìn vào thực tế, chắc ai cũng phải công nhận hầu hết những đôi vợ chồng còn ở với nhau chỉ vì nghĩa vụ chứ không phải vì tình yêu, cho nên họ phải chịu đựng nhau. Khi không chịu đựng nổi, thì chắc chắn đi đến ly dị!

            Vậy tôi đề nghị các bạn trẻ trước khi lập gia đình cần phải cầu nguyện nhiều xin Chúa soi sáng, lắng nghe kinh nghiệm của cha mẹ và những người đi trước hướng dẫn. Khi đã quyết định thì phải có tiêu chuẩn chọn bạn. Tôi xin đưa ra chín tiêu chuẩn sau :

 

 

NHỮNG TIÊU CHUẨN CHỌN BẠN TRĂM NĂM

 

Thiết tưởng có chín tiêu chuẩn sau đây:

1- Cùng Tin: Thánh Phaolô dạy: “Chớ có lứa đôi lệch lạc giữa người tin Chúa và kẻ không tin, vì hòa hợp thế nào được giữa ánh sáng và bóng tối!” (2 Cr 6, 14).

2- Tự Lập: Chúa Giêsu nói: “Người nam sẽ bỏ cha mẹ mình mà luyến ái với vợ” (Mt 19, 5). Vậy:

      Tự lập về mặt kinh tế: Vợ chồng không lệ thuộc vào tiền của bên nội hay bên ngoại. Liệu sao vợ chồng có khả năng tổ chức một gia đình đủ cho nhu cầu tối thiểu.

      -  Tự lập về mặt tinh thần: Vợ chồng phải đặt trách nhiệm xây dựng một gia đình hiệp nhất trong ý Chúa, không vì chữ hiếu mà nghiêng ngả bên nội hay bên ngoại.

3- Trẻ Thơ: Thánh Phao-lô nói: “Anh em có bất hoà thì như con nít thôi!”  (1Cr 14, 20).

4- Tuổi Đời: Vợ không nên nhiều tuổi hơn chồng, vì sắc đẹp và khả năng sinh lý của vợ chóng tàn hơn chồng.

5- Văn Hóa: Văn hóa của vợ không nên trổi vượt hơn chồng. Vì nếu văn hóa của vợ trổi hơn chồng, người chồng sẽ mặc cảm.

6- Làm Việc: Nhờ cả hai vợ chồng thích làm việc, họ dễ cảm thông lẫn nhau, nhất là tháo vát giải quyết được những khó khăn của gia đình.

7- Khỏe Mạnh: Cả hai vợ chồng cần có sức khoẻ tương đối, vừa để đảm bảo kinh tế gia đình, vừa để bảo đảm sức khoẻ con cái.

8- Vui Tươi: Niềm vui trên khuôn mặt là dấu chỉ sự hiện diện của Thiên Chúa. Thực vậy, thiên thần nói với  Đức Ma-ri-a trong lúc truyền tin: “Vui lên! Hỡi Đầy ơn phúc! Chúa ở cùng Bà” (Lc 1, 28). Pla-ton định nghĩa: “Con người là con vật biết cười!”

9- Khó Với Mình, Quảng Đại Với Chúa Và Tha Nhân  (x 2 Cr 6, 12t). Đó là tu thân: tự bắt mình đi ngược lại bản tính ích kỷ.

 Nhưng trong thực tế, không ai tìm được một người đủ chín tiêu chuẩn trên, nhưng tưởng đó là một chỉ tiêu cần thiết đặt ra để các bạn chọn lựa. Một người bạn chọn, càng đạt được nhiều tiêu chuẩn trên, thì bạn càng an tâm hơn. Nếu tiêu chuẩn quá ít thì phải nhắm trứơc sự chịu đựng của mình.

 TÓM TẮT:

Cùng tin, tự lập, trẻ thơ.

Tuổi đời văn hóa : thiếp nhờ chàng hơn.

Cùng làm, mạnh khỏe, vui tươi.

Khó ta, quảng đại tha nhân. Cưới liền!

http://phaolomoi.net

LM. GIUSE ĐINH QUANG THỊNH

 

 

 

 

 


Gửi phản hồi - thắc mắc

Tên của bạn *
Địa chỉ
Email *
Điện thoại
   
Câu hỏi

Lên đầu trang
Các bài giảng khác: