BÀI GIẢNG
CHÚA
GIÊSU, MỤC TỬ DUY NHẤT
Giáo huấn Chúa nhật 15 B đã mô tả chân
tướng người Tông Đồ của Chúa Giêsu ; thì giáohuấn Chúa nhật 16 B này nhằm nói
về căn tính người tdo, phải trở thành mẫu người mục tử hoàn hảo như Mục Tử Giêsu.
Vì thế mà Tin Mừng Gioan không ghi lại danh sách Tông Đồ, chỉ có ba ông Matthêu, Marcô và Luca ghi (x Mt
10,2-4 ; Mc 3,16-19 ; Lc 6,13-16 ; Cv 1,13). Lý do ngoài Chúa Giêsu, không ai
xứng đáng là Tông Đồ. Thực vậy, người Tông Đồ chính danh dựa vào các Bài đọc
trong Thánh lễ hôm nay, phải hội đủ bảy điều sau đây :
-
Kết hợp nên một với Chúa Giêsu.
-
Làm trước dạy sau.
-
Nâng đỡ người cộng tác với mình.
-
Chuyên tâm dạy Lời Chúa.
-
Làm hoàn hảo Lề Luật.
-
Chết vì say sưa giảng Lời.
-
Giảng đúng và đủ.
1- Kết hợp nên một với Chúa Giêsu.
Người Tông Đồ chính danh phải là
người kết hợp nên một với Chúa Giêsu Mục Tử qua Bí tích Khai Tâm (Thánh Tẩy,
Thêm Sức, Thánh Thể) và đặc thù còn được lãnh nhận Bí tích Truyền Chức Thánh.
Người như thế, thánh Phaolô nói : “Họ ở trong Đức Giê-su Kitô, nhờ máu Đức Kitô
đổ ra, họ không còn là người ở xa, mà là người ở gần” (Ep 2,13 : Bài đọc II).
Bởi vì Đức Giêsu đã nói : “Hãy ở lại
trong Thầy như Thầy ở lại trong anh em. Cũng như cành nho không thể tự mình
sinh hoa trái, nếu không gắn liền với cây nho, anh em cũng thế, nếu không ở lại
trong Thầy. Thầy là cây nho, anh em là cành. Ai ở lại trong Thầy và Thầy ở lại
trong người ấy, thì người ấy sinh nhiều hoa trái, vì không có Thầy, anh em
chẳng làm gì được”. Còn ai lưu lại trong Chúa Giêsu, dù còn gặp đau khổ,
giống như cành nho bị tỉa, có thế mới sinh nhiều hoa trái, trở nên Tông Đồ của
Chúa Giêsu làm vinh hiển Chúa Cha (x Ga 15,1-8).
Người Tông Đồ sống niềm tin như thế
mới làm ứng nghiệm lời ngôn sứ Giêrêmia : “Đức
Chúa phán : Ta sẽ làm nảy sinh cho nhà Đavit, một chồi non chính trực. Vị vua
lên ngôi trị vì sẽ là người khôn ngoan tài giỏi trong xứ sở, vua sẽ thi hành
điều chính trực công minh. Thời bấy giờ, Giuđa sẽ được cứu thoát, Israel được
sống yên hàn. Danh hiệu người ta tặng vua ấy sẽ là : “Đức Chúa, sự công chính
của chúng ta” (Gr 23,5-6 : Bài đọc
I). Ta lại biết “chồi non chính trực Vị Vua nhà Đavid” chính là Chúa Giêsu (x
Mc 12,35-37).
2- Làm trước dạy sau.
Chúa Giêsu là mẫu mực, là tiêu chuẩn,
để đo lường giá trị hoạt động của các Kitô hữu. Vì thế mở đầu sách Tông Đồ Công
Vụ, là sách lịch sử thời Giáo Hội sơ khai, ông Luca ghi ngay đầu sách : “Đức
Giêsu làm rồi mới dạy” (Cv 1,1), để mọi tín hữu phải xác tín rằng : Đức Giêsu
đã bắt đầu viết lịch sử Hội Thánh, đến lượt những kẻ tin theo Ngài, phải tiếp
tục viết làm hoàn hảo cuốn Lịch Sử, muốn thế cũng phải làm rồi mới dạy, để tới
ngày cánh chung, mọi người nhận ra dung nhan rạng ngời của Chúa Giêsu Phục Sinh,
và đấy cũng là lý do khi thánh Gioan viết về cuộc đời hoạt động của Mục Tử Giêsu,
và hoạt động của Hội Thánh, ông đều dùng một câu : “Đức Giê-su đã làm trước mặt các môn đệ của Ngài, nhiều dấu lạ khác nữa
không viết lại trong sách này, bởi vì nếu viết lại từng điều, thì thiết tưởng
thế gian không đủ nơi mà chứa sách viết ra” (Ga 20,30 ; 21,25).
Chính vì phải làm trước rồi dạy sau mới
xứng danh là “Tông Đồ” của Chúa Giêsu. Thế nên trong toàn bộ Tin Mừng của Marcô
chỉ có một lần ông ghi những người Đức Giêsu tuyển chọn là Tông Đồ : “Khi
các ông họp lại bên Đức Giêsu và tin cho Ngài tất cả những gì họ đã làm và đã dạy” (Mc 6,30: Tin Mừng).
3- Nâng đỡ người cộng tác với mình.
Các Tông Đồ sau thời gian vất vả phục
vụ mọi người theo lệnh của Thầy Giêsu, đến nỗi họ không còn thời giờ nghỉ ngơi
ăn uống, làm Đức Giêsu cảm thương họ, nên Ngài bảo : “Anh em hãy lánh riêng ra, đến nơi thanh vắng mà nghỉ ngơi đôi chút”,
thế là Thầy trò xuống thuyền trốn đến một nơi hoang vắng… nhưng dân chúng biết
được, họ kéo nhau chạy bộ đến trước để đón. Chúa Giêsu thấy đoàn lũ dân chúng
kéo đến phá vỡ kế hoạch nghỉ ngơi của Thầy trò, lúc ấy Ngài cứ để các môn đệ
nghỉ ngơi ăn uống, còn chỉ mình Ngài ra đón dân với đầy lòng trắc ẩn lên tiếng dạy
nhiều điều” ( x Mc 6,30-34 : Tin Mừng).
Tâm tình và việc làm của Mục Tử Giêsu
đối với đầy tớ được Ngài sai đi phục vụ đã mệt nhoài trở về và lòng trắc ẩn của
Ngài đối với dân tuốn đến, trở thành mẫu cho các Tông Đồ :
-
Chủ thấy đầy tớ vất vả, thì đỡ lấy công việc đã trao, mà
tiếp tục phục vụ nhu cầu mọi người.
-
Mục tử thấy đoàn chiên khắp nơi tuốn đến với các đầy tớ,
lại không tỏ ra khó chịu dù bị quấy rầy không cho nghỉ ngơi, nhưng ân cần tiếp
họ và lên tiếng dạy nhiều điều, để không ai còn đói khát Chân Lý!
Rất tiếc không ít chủ chăn khi trao công việc cho người
dưới làm, không hề hỏi han để khích lệ và nâng đỡ ; giáo dân cần việc gì chạy
đến chủ chăn, thì người ta cảm thấy sợ như gặp cọp!! Hãy nhớ lời thánh Phêrô
dạy : “Anh em hãy chăn dắt đàn chiên của
Thiên Chúa nơi anh em, không phải như thể miễn cưỡng, nhưng là sẵn lòng, thể
theo ý Thiên Chúa, không hám trọc lợi, nhưng cách nhiệt thành. Đừng như thể làm
chúa trên phần cơ nghiệp đã lĩnh,
nhưng là làm gương mẫu cho đàn chiên” (1Pr 5,2-3), nhất là trong sứ mệnh
loan báo Tin Mừng.
Theo Giáo luật số 756-757 đã xác định
việc loan báo Lời Chúa (hay dạy Giáo Lý) là bổn phận chính của các Giám mục,
Linh mục và Phó tế. Trong thực tế, không biết được bao nhiêu Giám mục nâng đỡ Linh
mục ? Được bao nhiêu cha Sở nâng đỡ cha Phụ tá? Được bao nhiêu Linh mục nângn
đỡ thầy Phó tế? Và được bao nhiêu mục tử nâng đỡ giáo dân? Có lẽ phần lớn chỉ
dùng quyền trên mà trao phó việc nặng nhọc cho người dưới, đôi khi còn lên
tiếng khiển trách !
4- Chỉ giảng dạy Lời Chúa.
Cả đoàn lũ dân tuốn đến cùng Chúa
Giêsu, chắc chắn là họ đi tìm Ngài chỉ vì miếng ăn no bụng, hoặc xin được chữa
lành mọi bệnh tật (x Ga 6,22-27 ; Mc 1,29-39) thế mà Chúa Giêsu lại giảng dạy
cho họ nhiều điều, như Ngài làm lơ trước những khát vọng của họ! (x Mc 6,33-34
: Tin Mừng), bởi vì Ngài muốn xác định với mọi người :
-
Hãy tìm kiếm Nước Thiên Chúa trước và sự công chính của
Ngài, còn các điều khác Ngài sẽ ban thêm cho (Mt 6,33).
-
Hãy ra công làm việc, đừng vì lương thực hư nát, nhưng vì
lương thực sẽ lưu lại mãi đến sự sống đời đời (Ga 6,27).
Mà việc tiên quyết tìm
kiếm Nước Thiên Chúa trước hay ra công làm việc để có của ăn sinh sự sống đời
đời, cụ thể nhất là tìm kiếm, đón nhận Lời Chúa như chính Chúa Giê-su đã nói :
“Người ta sống không nguyên bởi bánh
nhưng bởi mọi lời miệng Thiên Chúa phán ra” (Mt 4,4). Nên khi giáo dân tìm
đến các chủ chăn trong Hội Thánh, thì phải hiểu các ngài là :
v Người của Thiên Chúa
sai thì nói Lời Thiên Chúa, vì Thiên Chúa ban Thần Khí cho vô lường vô hạn (Ga
3,34). Thế nên :
v Ai có nói thì nói Lời
Thiên Chúa, ai phục vụ thì phục vụ bằng sức lực Chúa ban, có thế trong mọi việc
chúng ta làm mới tôn vinh Thiên Chúa, nhờ Đức Giêsu (1Pr 4,11).
Nói tóm lại, phải hiểu
sứ mệnh của Chúa Giêsu, cũng như các Tông Đồ chuyên lo “loan báo Tin Mừng bình an, bình an cho anh em là những kẻ ở xa, và bình
an cho những người ở gần, hầu liên kết mọi người trong một Thần Khí duy nhất,
mà đến cùng Chúa Cha” (Ep 2,17-18 : Bài đọc II).
5- Làm hoàn hảo Lề Luật.
Nhờ Mục Tử Giêsu mà Luật trở nên hoàn
hảo, như Ngài nói : “Đừng tưởng tôi đến
để bãi bỏ Lề Luật hay các tiên tri, tôi đến không phải để bãi bỏ, mà là để làm
trọn” (Mt 5,17). Thế thì các Tông Đồ phải nên giống Thầy Giêsu “làm rồi mới
dạy”. Có thế mới làm cho lời dạy của mình nên hoàn hảo, bởi vì dạy mà không
làm, chỉ đặt thêm gánh nặng trên người khác (x Mt 23,3-4).
Nói tắt, mọi lời sấm ngôn đã được ứng nghiệm cách hoàn hảo nhờ,
với, trong Chúa Giêsu mới tôn vinh Thiên Chúa (x Rm 11,36). Vì thế thánh Phaolô
nói : “Người đã hủy bỏ Luật cũ gồm các
điều răn và giới Luật. Khi thiết lập hòa bình, Người đã tác tạo đôi bên thành
một người mới duy nhất nơi chính bản thân Người. Nhờ thập giá, Người đã làm cho
đôi bên được hòa giải với Thiên Chúa trong một thân thể duy nhất, trên thập
giá, Người đã tiêu diệt sự thù ghét” (Ep 2,15-16 : Bài đọc II).
6- Chết vì say sưa giảng Lời hằng sống.
Trong Bài đọc II, thánh Phaolô đã
nhấn mạnh : Nhờ Chúa Giêsu hết lòng rao giảng Tin Mừng, chứng minh sự thật Ngài
là Thiên Chúa, có quyền tha tội, thế mà khi Ngài nói với người bất toại đến xin chữa lành : “Tội con đã được tha”, làm cho những kẻ
chứng kiến phẫn uất : “Tên này nói phạm
thượng (x Mc 2,4-7). Lý do đó mà họ ném đá Đức Giêsu và còn nói : “Không phải vì một việc trọn hảo mà chúng tôi
ném đá ông, nhưng vì một lời phạm thượng! Ông là một người phàm mà dám cho mình
là Thiên Chúa” (Ga 10,33). Bởi thế họ đã la hét trước tòa công nghị: “Nó đã nói phạm thượng, nó phải mang án tử!”
(Mt 26,65-66).
Bởi đó, khi Chúa Giêsu trao quyền
cho ông Phêrô chăm sóc Hội Thánh, Ngài đã cho ông biết trước : “Khi con còn trẻ, con tự thắt lưng mình, mà
đi đâu tùy ý ; nhưng khi đã về già, con sẽ giăng tay ra và người khác sẽ thắt
lưng cho con, lôi con đến nơi con không muốn. Ngài nói vậy để ám chỉ Phê-rô
phải chết cách nào mà tôn vinh Thiên Chúa. Nói thế rồi, Ngài bảo ông : Hãy theo
Ta!” (Ga 21,18-19).
Thánh Phaolô đón nhận đau khổ trong
đời sống phục vụ Tin Mừng như một ơn cao trọng đặc biệt Chúa ban, nên ông nói :
“Ngoài Chúa Ki-tô chịu đóng đinh,tôi
không muốn biết điều gì khác nữa!” (1Cr 2,2) Vì thế, “tôi vui thỏa trong nỗi yếu đuối, trong lăng nhục, trong quẫn bách,
trong bách bớ, và cùng khốn, vì Đức Ki-tô. Bởi khi tôi yếu, chính là lúc tôi
mạnh!” (2Cr 12,10).
7- Giảng đủ và giảng đúng.
Chắc chắn Chúa Giêsu biết các môn đệ
Ngài đã vất vả giảng Lời, đến nỗi không còn giờ nghỉ ngơi ăn uống, nên Ngài bảo
các ông : “Anh em hãy tìm nơi vắng vẻ để nghỉ ngơi” vì Ngài biết các ông chưa giảng
hết những điều phải nói, nên Ngài lên
tiếng dạy dân chúng nhiều
điều, và kéo
dài tới ba ngày mà vẫn chưa nói hết điều phải nói, đến nỗi các môn đệ phải lên
tiếng xin Ngài ngưng giảng, để dân vào làng mua bánh ăn! (x Mt 15,32-33)
Noi gương Thầy Giêsu, ông Phaolô đến
Trôa phục vụ suốt cả tuần lễ, mà ngày cuối cùng, ông biết ngày mai phải lên
đường, nên trong Thánh Lễ đêm thứ bảy tuần ấy ông giảng đến quá nửa đêm, khiến
anh Êutykhô, ngồi ở ban công lầu ba - cách mặt đất khoảng 10 mét- quá buồn ngủ,
anh gật gù nhất trí về bài giảng của ông Phaolô, thế là bị lộn đầu xuống đất chết,
cả cộng đoàn nhớn nhác đứng lên, nhưng ông Phaolô ra hiệu cho mọi người ngồi
yên, đoạn ông tới ôm lấy anh và bảo mọi người “hồn vẫn còn trong nó”, rồi ông
lại tiếp tục dâng Lễ cho tới sáng mới nói hết điều phải nói. Thánh Lễ bế mạc,
mọi người ra về, có cả Êutykhô cũng hòa vào đoàn người vui vẻ ra về ! (x Cv 20).
Khi đọc lại những chứng từ về cách giảng của Đức
Giêsu và các Tông Đồ, ta phải đi đến xác tín : Chủ chăn có quyền bắt giáo dân
nghe nhiều điều, và giáo dân phải quảng đại nghe Lời Chúa ! Nhưng ngày nay
trong các Thánh lễ Trọng hay lễ Chúa nhật, dù Hội Thánh buộc vị có chức Thánh
phải giảng, thì hầu hết bài giảng cũng chỉ khoảng 10 phút đã cho là tốt, là đủ,
là dài rồi! Quả thật là vô lý ! Người ta chỉ dựa vào thời gian để đánh giá bài
giảng mà không quan tâm đến nội dung, thì làm sao người giảng có thể trình bày
cho giáo dân nhận ra một sợi dây giáo lý xuyên suốt qua các Bài đọc trong Phụng
Vụ, để mọi người xác tín vị giảng đã giảng đúng Luật, như trong Hiến Chế Phụng
Vụ
-
“Trong việc cử hành Phụng vụ, Thánh Kinh giữ vai trò tối quan trọng, Hội Thánh đã trích
từ Thánh Kinh những Bài đọc, những Bài để dẫn giải trong Bài giảng, cũng như
những Thánh Vịnh để hát… Vì vậy, để xúc tiến việc canh tân, và phát triển thích
ứng Phụng vụ, cần phải phát huy lòng mộ mến Thánh Kinh đậm đà và sống động”
(Hiến Chế Phụng Vụ số 24).
-
“Phải cổ võ việc suy tôn Lời Chúa vào những ngày áp lễ
Trọng, nhất là trong các mùa Vọng, mùa Chay, những Chúa nhật” (Hiến Chế Phụng
vụ số 35).
-
“Bài
giảng phải căn cứ vào Thánh Kinh để trình bày các mầu nhiệm đức tin, và các quy tắc cho đời sống
Ki-tô giáo trong suốt chu kỳ năm Phụng vụ, và rất đáng được coi như một phần
chính của Phụng vụ… nên không được bỏ giảng, nếu không có lý do hệ trọng” (Hiến
Chế Phụng Vụ số 52).
Tôi đưa một thí dụ : Chủ nhà mời tôi
đến ăn tái nhúng, chắc chắn trên bàn bày ra năm món :
-
Thịt.
-
Rau.
-
Bánh tráng.
-
Bún
-
Nước mắm.
Thế mà người phục vụ
bàn ăn chỉ cho tôi dùng một trong năm món đó. Hỏi chủ tiệc và người dự tiệc có
bằng lòng không?
Vậy trong bàn tiệc Lời
Chúa của Phụng Vụ, lễ Trọng hoặc lễ Chúa nhật, Hội Thánh cũng dọn ra “năm món” để
dân Chúa dùng :
-
Bài đọc I.
-
Bài Đáp ca.
-
Bài đọc II.
-
Tung Hô Tin Mừng.
-
Bài Tin Mừng.
Người phục vụ bàn tiệc
chỉ cho dân dùng một trong năm “món Lời Chúa” mà chẳng ai lấy làm khó chịu, lại
còn cho đó là tốt, thì thật là không thể hiểu nổi!? Trong khi đó giáo huấn của
Công Đồng Vat.II trong Sắc Lệnh về Đời Sống Linh Mục số 4 dạy : “Dân Chúa được đoàn tụ trước hết là nhờ
Lời Thiên Chúa hằng sống, Lời này phải đặc biệt tìm thấy nơi miệng lưỡi các
Linh mục …
nhờ rao giảng Lời Chúa làm cho dân Chúa ngày càng đông thêm… Do đó, các Linh mục mắc nợ mọi người về việc thông
truyền cho họ chân lý Phúc Âm”. Phận sự của các ngài
không phải là giảng sự thông thái của chính mình, mà phải xác tín như thánh
Phaolô : “Tôi giảng chẳng cần dựa vào lời
lẽ khôn khéo hấp dẫn, nhưng chỉ dựa vào bằng chứng xác thực của Lời Chúa”
(1Cr 2,4).
Thánh Tông Đồ sau khi
đã tận lực rao giảng Lời, ông hân hoan nói với giáo đoàn : “Tôi hoàn toàn trong sạch về máu mọi người,
vì tôi đã không e ngại mà giấu diếm đi, để không loan báo cho anh em tất cả ý
định của Thiên Chúa” (Cv 20, 26-27 – Bản dịch NTT).
Mà thật, nếu ông thiếu sót trong việc giảng Lời
Chúa, thì ông đã chủ ý giết cả hồn xác giáo dân mà quăng xuống hỏa ngục!
Có hết lòng giảng Lời
Chúa như ông Phaolô, mới có thể nói : “Vô
phúc cho tôi nếu tôi không rao giảng Tin Mừng, tự ý làm điều đó thì tôi có
công, còn nếu ngoài ý tôi, thì đó là trách nhiệm Chúa đã ký thác cho tôi!” (1Cr
9,16) Và “nếu tôi luôn luôn làm hài lòng người
đời, tôi không còn là tôi tớ của Chúa nữa!” (Gl 1,10). Làm hài
lòng người đời, cụ thể nhất là giảng càng vắn càng tốt, không giảng thì tốt
nhất, lễ càng mau dân càng đông!
Khi Đức Giêsu hóa bánh cá nhiều nuôi
dân, là dấu Ngài lập Bí tích Thánh Thể,
Ngài không dùng quyền toàn năng của Ngài để nuôi dân, mà lại muốn các Tông Đồ
cộng tác, Ngài nói : “Anh em hãy cho dân
ăn” (Mt 14,16b). Như thế, mầu nhiệm Thánh Thể không phải chỉ duy Chúa Giêsu
nuôi dân, mà Chúa Giêsu còn ra lệnh cho các mục tử phải cộng tác với Ngài cho
dân ăn. Hỏi trong Thánh Lễ, chủ tế lấy gì cho dân ăn nếu không phải là đã vất
vả dọn bài giảng để trình bày đúng Luật. Nếu chủ tế chỉ cho dân rước Lễ, thì mới
cho dân một phần hai tấm Bánh Hằng Sống, vì thiếu “bánh” (bài giảng)! Như thế
Chúa Giêsu Thánh Thể đã cụt mất một phần Thân Thể của Ngài (Chúa Giêsu cà
thọt).
Mục tử nào không giống
Thầy Giêsu, hay không giống Tông Đồ Phaolô, thì Chúa đã dùng miệng ngôn sứ
Giêrêmia nguyền rủa họ : “Khốn thay những
mục tử làm cho đoàn chiên Ta chăn dắt phải thất lạc và tan tác ! Các ngươi đã
xua đuổi chiên và chẳng lưu tâm đến chúng. Này Ta sẽ để ý đến các hành vi gian
ác của các ngươi mà trừng phạt các ngươi!” (Gr 23,1-2 : Bài đọc I).
Ngôn sứ Malaki còn lên
án gắt gao hơn : “Ta sẽ chúc dữ cho sự
chúc lành của các ngươi. Ta sẽ chặt cánh tay các ngươi, và vãi phân lên mặt các
ngươi” (Mal 2,1-3).
Vậy các Tông Đồ trong
Hội Thánh phải là hiện thân Mục Tử Giêsu, đặc biệt trong nhiệm vụ ngôn sứ, để
nói được như Chúa Giêsu : “Chiên của tôi
thì nghe tiếng tôi, tôi biết chúng và chúng theo tôi” (Ga 10,27 : Tung Hô
Tin Mừng). Đó mới thực là đoàn chiên của Chúa Giêsu nói lên niềm xác tín : “Chúa là Mục Tử chăn dắt tôi, tôi chẳng thiếu
thốn gì” (Tv 23/22, 1: Đáp ca).
THUỘC LÒNG.
Chúa Giêsu thấy đoàn lũ dân chúng tuốn
đến với Ngài, dù Ngài và các Tông Đồ đã phục vụ họ vất vả không còn giờ nghỉ
ngơi ăn uống, thế mà Chúa Giêsu lại ra đón tiếp họ cách ân cần, rồi Ngài lên
tiếng giảng dạy nhiều điều cho họ (x Mc
6,30-34).
http://phaolomoi.net
Linh mục GIUSE
ĐINH QUANG THỊNH