BÀI GIẢNG
MẦU NHIỆM NƯỚC THIÊN CHÚA
Tin Mừng hôm
nay (Lc 13,18-21), Đức Giê-su dùng ba hình ảnh để diễn tả về mầu nhiệm Nước
Thiên Chúa :
·
Hạt cải : Diễn tả sứ mệnh của Hội
Thánh là ô dù.
·
Men : Diễn tả sứ mệnh của Hội Thánh
là cảm hóa lòng người.
·
Ba đấu bột : Diễn tả đức ái trong
niềm hy vọng cứu độ.
1/ HẠT CẢI : SỨ MỆNH CỦA HỘI THÁNH LÀ Ô DÙ.
Đức Giê-su
dùng hình ảnh hạt cải nhỏ bé, khi gieo xuống đất nó mọc lên thành cây lớn, trở
thành nơi nương ẩn cho chim trời (x Lc 13,19 : Tin Mừng).
Hội Thánh
được coi là nhỏ bé vì :
a- Số lượng nhỏ bé : Đức Giê-su
có ý chọn 12 môn đệ để đặt làm nền tảng Hội Thánh, vậy mà Ngài huấn luyện họ
suốt ba năm, trong số đó không nảy sinh mà còn mất đi một tên Giu-đa, cho nên
lúc Đức Giê-su về trời, chỉ có 11/12
người được sai đi tiếp nối sứ mệnh của Ngài (x Mt 28,16).
Ngày
hôm nay, nếu căn cứ vào bản chất của người xứng đáng làm môn đệ Chúa, thì số
người lại càng ít hơn nữa, khiến Đức Giê-su phải rên lên : “Mùa màng nhiều, thợ gặt ít !” (Mt 9,37)
b- Lòng đạo nhỏ bé :
·
Đức tin không vững :
Suốt ba năm Chúa huấn luyện Nhóm 12 để sai họ đi loan báo Tin Mừng, thế mà khi
Chúa Giê-su Phục Sinh, Ngài sai họ đi làm chứng cho Ngài, trong số đó có người còn hồ nghi (x Mt 28,17).
·
Tội lỗi bản thân : Vị
Tông Đồ nổi danh nhất trong Hội Thánh là ông Phao-lô, đã phải thú nhận sự yếu
hèn của ông trước đòi hỏi nên thánh trong sứ mệnh, ông nói : “Sự lành tôi muốn, tôi không làm, còn sự dữ
tôi không muốn, tôi lại cứ làm” (Rm 7,18-19).
·
Tranh quyền ham lợi :
Nhiều người bề ngoài xem ra từ bỏ mọi sự theo Thầy Giê-su (x Mc 10,28), nhưng
trong lòng họ vẫn mang tính sôi thịt, tranh nhau quyền bính, lợi nhuận : Không
phải chỉ có từ thời Đức Giê-su, họ đã tranh nhau ngồi bên phải bên trái Thầy
trong Nước Thiên Chúa (x Mt 20,20t), mà tật xấu ấy còn di căn đến các thế hệ
sau, thậm chí vào thời trung cổ,từ năm 1378 – 1417, có ba vị tranh ngôi Giáo
hoàng, thủ đô Hội Thánh mỗi ông đặt theo ý mình : Một ở Rô-ma, một ở Pháp, một
ở Bỉ. Sự cố này kéo dài gần 1/2 thế kỷ.
c- Văn hóa kém: Các môn đệ
Chúa chọn là những người thuộc giới lao động, có lẽ chỉ biết đọc biết viết, nên
người thời ấy liệt họ vào những kẻ vô
học thức (x Cv 4,13).
d- Quyền bính yếu :
Những vị xây dựng mầu nhiệm Nước Thiên Chúa từ Thủ Lãnh là Đức Giê-su và những
kẻ theo Ngài không có một tấc sắt để bảo
vệ, các môn đệ bị đánh đòn và ra tù vào khám như cơm bữa, mà chẳng ai bênh
vực (x Cv 12).
Thế nhưng Hội
Thánh vẫn là ô dù che chở cho nhiều người. Cụ thể :
a)
Chữ quốc
ngữ ở Việt Nam, nếu Hội Thánh không có mặt trên đất nước này,
thì dân Việt vẫn còn dùng chữ Nôm, rất lạc hậu.
b)
Ảnh hưởng của Đức Giáo hoàng Pio thứ 12 trong
thế chiến thứ hai :
Nếu ngài không lên tiếng ngăn cản ông Marconi chế ra vũ khí tiêu diệt
biển người, thì chính quyền Ý đã dùng vũ khí ấy để bá chủ thế giới. Và cứ như
thế thì đệ nhị thế chiến gây hậu quả khốc liệt, không lường !
c)
Nhờ uy tín của Đức
Giáo hoàng Gio-an Phao-lô II mà sau khi ông Gióc-ba-chóp, Tổng bí thư cộng sản Liên xô
hội kiến với ngài, ông đã làm cho thế giới trở nên một khối : Đảng cộng sản Đông Âu tự tan rã ! Người ta
hỏi ĐGH : “Có phải ngài xúi ông
Gióc-ba-chóp làm như thế không?” Ngài trả lời : “Chân lý sẽ giải phóng con người (x Ga 8,32), tôi làm nhiệm vụ Chúa trao, là nhắc cho thế giới chân lý của Chúa Ki-tô”
(x Mt 28,20).
d)
Về âm nhạc, nhờ thầy Dòng Guion có sáng kiến định dấu 7 nốt nhạc, lấy từ âm một bản Thánh ca trong
tiếng La-tinh.
e)
Thống nhất lịch dùng chung trên thế giới, trước thế kỷ thứ 15, mỗi nước tự
đặt niên biểu cho mình, mãi đến thời Đức Giáo hoàng Grégorio thứ 13
(1505-1583), ngài lấy ngày Chúa Giáng Sinh làm mốc thời gian, lúc đó thế giới
mới thống nhất lịch cần thiết cho những giao dịch và các quy ước giữa loài
người.
2/ MEN TRONG BỘT :
CHỨC NĂNG CỦA HỘI THÁNH LÀ CẢM HÓA LÒNG CON NGƯỜI.
Đức Giê-su dùng hình ảnh men vùi
trong bột, không làm cho bột thối rữa, nhưng làm cho nó biến chất, hoặc để làm
bánh, hoặc để làm rượu, cho mọi người hưởng dùng. Chỉ một chút men làm thay đổi
cả thúng bột. Hình ảnh này diễn tả Giáo Hội đã dùng Lời Chúa làm men cảm hóa
lòng người. Đan cử :
-
Nhờ Lời Chúa mà Hội Thánh hoán cải “sói Sao-lô” thành Tông Đồ Phao-lô
xuất sắc (x Cv 9 ; 2Cr 11,5).
-
Nhờ chân lý Tin Mừng Hội Thánh rao giảng, mà xóa đi
giai cấp nô lệ trong thế giới, mọi người phải tôn trọng nhau, sống bình đẳng.
-
Phim “Sám Hối” sản xuất từ Liên xô, một xã hội chủ trương chối bỏ thần
thánh, nhưng tác giả cuốn phim này hoàn toàn lấy tư tưởng Ki-tô giáo chống lại
chế độ độc tài, mà ông Vác-lam là hiện thân cho thể chế độc ác đó, nên ông biết
ai hướng về Ki-tô giáo, cụ thể như một họa sĩ vẽ hình Đức Mẹ Đồng Trinh, vẽ
hình Nhà Thờ, bị ông Vác-lam kết án là phá hoại xã hội, như lời ông lên án
người họa sĩ : “Tại sao mày không vẽ một
nữ lao động đang xây dựng xã hội, mà mày lại vẽ bà Ma-ri-a đồng trinh? Ích lợi
gì cho xã hội? Tại sao mày không vẽ một nhà máy sản xuất vũ khí, mà mày lại vẽ
một ngôi đền ? Hỏi ngôi đền có chống lại kẻ thù của nước ta không ?” Và ông
còn lớn tiếng đe dọa mọi người rằng : “Tôi
có khả năng bắt được con mèo đen trong phòng tối, dù trong phòng tối không có
con mèo đen !” Cuốn phim này sản xuất trên 30 năm tại Liên xô mà không được
trình chiếu, đến thời ông Gióc-ba-chóp lãnh đạo, ông cho chiếu rộng rãi ở nhiều
nước xã hội chủ nghĩa từ năm 1987 - 1989. Chỉ ba năm sau khối cộng sản Đông Âu
sụp đổ !
Một số chứng từ trên đây minh chứng chức năng
của Hội Thánh qua hình ảnh hạt cải mọc lên và men làm dậy thúng bột, đó chỉ là
những dấu chỉ về ơn cứu độ Chúa thực hiện qua chân lý được công bố trong Hội
Thánh của Ngài. Ơn cứu độ Chúa ban cho những kẻ sống trong mầu nhiệm Nước Thiên
Chúa (Hội Thánh), chỉ được thực hiện trọn vẹn trong thời cánh chung. Do đó
thánh Phao-lô nói : “Ơn cứu độ đến với ta
như một hy vọng, hy vọng mà thấy được ai
còn hy vọng nữa, nhưng nếu ta hy vọng
điều ta không thấy, thì ta cứ kiên vững đợi trông.” (Rm 8,24-25). Cũng
chính vì vậy mà thánh Phao-lô nói với giáo đoàn Phi-líp : “Ơn cứu độ vẫn còn ở phía trước chúng ta, đừng ai tưởng mình đã nắm bắt trọn, chính tôi đang ruổi theo mà
chụp lấy, chiếm đoạt, bởi chưng tôi đã được Đức Ki-tô chộp lấy. Vậy chúng ta
hãy quên phía sau mà lao mình về phía trước, nhắm đích chạy đến giải thưởng của
ơn kêu gọi từ trên cao Thiên Chúa đã ban bố trong Đức Ki-tô” (Pl 3,12-14).
Để khai triển niềm tin ơn cứu độ
được trở nên hiện thực hơn lòng người ta mơ ước vào thời cánh chung, Đức Giê-su
đã dùng hình ảnh thứ ba :
3/ NƯỚC TRỜI GIỐNG NHƯ
NGƯỜI ĐÀN BÀ LẤY MEN VÙI VÀO BA ĐẤU BỘT (x Lc 13,21 : Tin Mừng).
Hình ảnh này nhắc cho mọi người
nhớ đến bà Sa-ra, vợ ông Ab-ra-ham đã gần 100 tuổi mà chưa có con. Ngày kia
thình lình có ba người khách đi ngang lều của ông bà, ông Ab-ra-ham vui vẻ đón
ba người khách vào nhà rồi giết chiên, còn bà Sa-ra thì lấy ba đấu bột làm bánh
đãi khách. Vợ chồng này chỉ tỏ lòng trắc ẩn tình người đối với khách lỡ đường,
ai ngờ đâu khách đã chúc lành cho bà Sa-ra sinh con trai, đặt tên là I-sa-ac,
I-sa-ac sinh ra Gia-cóp, rồi sinh ra 12 người con làm nên dân tộc Do-Thái. Từ
dân tộc này, Đấng Cứu Thế xuất hiện, cũng thuộc dòng giống của tổ phụ Ab-ra-ham
và Sa-ra. Bây giờ ông Ab-ra-ham và bà Sa-ra ở trên trời mới nhận ra giá
trị hiệu quả tuyệt vời chương trình cứu
độ loài người của Thiên Chúa đã khai mở
từ hành động của bà Sa-ra lấy ba đấu bột làm bánh đãi khách. Sau khi Đức
Giê-su, Con Một Thiên Chúa hoàn tất chương trình cứu độ loài người của Ngài qua
mầu nhiệm Tử Nạn và Phục Sinh, đã làm cho biết bao nhiêu người được lên Thiên
Đàng, sum họp quanh tổ phụ Ab-ra-ham và Sa-ra, có như vậy, hai ông bà mới nhận
ra giá trị lời chúc phúc của Thiên Chúa : “Con
cháu dòng tộc ông đông như sao trên trời như cát dưới biển” (St 22,17).
Điều này khi ông Ab-ra-ham và bà Sa-ra còn sống chỉ mơ có một người con, vậy mà
khi Thiên Chúa thực hiện lời hứa của Ngài, thì hai ông bà đông con cháu hơn
lòng họ mơ ước !
Như thế gia đình tổ phụ Abraham và
Sara là mầm nảy sinh Hội Thánh Chúa Ki-tô. Thực vậy, Hội Thánh Chúa Ki-tô được
thai nghén từ gia đình Nadareth. Đó là lý do khi Đức Giê-su bắt đầu hoạt động
công khai để khai sinh Hội Thánh, Ngài đã có mặt tại một gia đình vợ chồng khai
mở tiệc cưới tại Cana. Mẹ Maria với trải nghiệm làm chủ gia đình, vì
lúc ấy ông Giuse đã qua đời, Mẹ muốn cho đôi tân hôn luôn có “rượu
mới của tình yêu”, hương vị đậm đà hơn rượu cũ, nên Mẹ đã lên tiếng dặn
dò người ta : “Giêsu bảo gì cứ làm theo” (Ga 2,5).
Thực vậy chỉ khi nào mọi thành
phần trong gia đình thực hành Lời Đức Giê-su dạy, gia đình đó mới thực sự diễn
tả Hội Thánh Chúa Ki-tô sống động nơi dương thế. Chính vì vậy mà thánh Phao-lô
dạy : “Trong gia đình người chồng diễn tả
sự hiện diện của Chúa Giê-su Ki-tô, người vợ diễn tả đời sống Đức
Tin, Đức Cậy, Đức Ái của Hội Thánh” (x Ep 5,21-33).
Có thế gia đình mới được dồi dào “hạnh phúc vì kính sợ Chúa” (Tv 128/127,
1a).
Đức cố Giáo hoàng Gioan Phaolo II
nhắc nhở cho các gia đình Ki-tô giáo : “Gia
đình Ki-tô hữu là Thánh Điện của Hội Thánh, là tế bào đầu tiên và sinh động của
xã hội, gia đình đã được Công Đồng Vat.II đề cao, coi như Thánh Điện của Hội
Thánh, khi mọi người trong nhà yêu thương đùm bọc nhau, và cùng nhau dâng lời
cầu nguyện lên Thiên Chúa. Gia đình Ki-tô hữu chỉ xuất hiện như một “Hội Thánh tại gia”, nếu các phần tử tùy
theo môi trường và phận sự riêng biệt của mỗi người cùng nhau hoạt động để phát
huy công lý, cùng nhau làm việc từ thiện, hiến thân phục vụ anh chị em, và
trong một khung cảnh rộng lớn hơn, tham gia vào việc Tông Đồ và Kinh Phụng Vụ
của cộng đoàn địa phương, cũng như cùng nhau dâng lên Chúa những lời cầu nguyện
sốt sắng chân thành. Thiếu yếu tố này là thiếu hẳn đặc tính của gia đình Ki-tô
giáo. Vì thế, nếu muốn tìm lại ý nghĩa thần học về gia đình, thì phải nhất
thiết nỗ lực để tái lập thói quen cầu nguyện chung trong đời sống gia đình.
Với tư cách là “Thánh Điện tại
gia của Hội Thánh”, gia đình nên cầu nguyện chung, và chẳng những thế mà
còn phải tùy nghi sử dụng một vài phần trong các giờ Kinh Phụng Vụ, để kết hợp
mật thiết hơn với Hội Thánh” (Trích Tông Huấn tôn sùng Đức Mẹ số 52 và 53).
Đức Cố Giáo hoàng
Gioan 23 về quê thăm cha mẹ, ngài nói : “Thưa cha mẹ, hôm nay con được 50 tuổi,
Chúa thương ban cho con nhiều chức trong Hội Thánh, đi nhiều nơi, học nhiều
sách, nhưng không trường nào dạy dỗ con, làm ích cho con hơn thời gian con còn
được ngồi bên cha mẹ”. Tưởng cũng nhắc lại khi ngài còn làm Hồng y, có lần ngài
về thăm mẹ và khoe : “Đây là nhẫn Tổng Giám mục của con”. Bà mẹ không chịu thua
giơ tay ra cho con xem và nói : “Cái nhẫn mỏng tanh này trên tay mẹ đáng hãnh
diện hơn, vì nếu không có nhẫn cưới này, thì cũng chẳng có một Hồng y
Roncalli”.
Vậy Chúa đã dùng ba loại vật chất
: Hạt cải, men, ba đấu bột, để diễn tả về mầu nhiệm Nước Thiên Chúa. Đó là lý
do thánh Phao-lô nói : “Vạn vật ngong
ngóng trông đợi thấy ngày con cái Thiên Chúa được hiển dương… với hy vọng chính
tạo vật cũng được tự do khỏi cảnh làm tôi mục nát, mà vào địa vị tự do vinh
quang thuộc hàng con cái Thiên Chúa”. Nếu tạo vật còn được Chúa dùng để
diễn tả về vinh quang con cái Thiên Chúa trong Hội Thánh, khi nó được tham dự
vào vinh quang con cái Thiên Chúa, thì cả chúng ta nữa càng cần phải để Chúa sử
dụng khi “chúng ta khao khát mong đợi
được phúc làm nghĩa tử của Thiên Chúa, hầu thân xác ta cũng là vật chất khỏi
phải làm tôi sự mục nát” (x Rm 8,18-24).
Tất cả những ai cảm nghiệm được
phúc Chúa cứu độ trong mầu nhiệm Nước Thiên Chúa (Hội Thánh), họ đều cất tiếng
ngợi khen : “Hạnh phúc thay những người
kính sợ Chúa, ăn ở theo đường lối của Người, công khó bạn làm ra, bạn được an
hưởng, bạn quả là lắm phúc nhiều may” (Tv 128/127,1-2).
THUỘC LÒNG
+ Ơn cứu độ đến với ta
như một hy vọng, hy vọng mà thấy được ai
còn hy vọng nữa, nhưng nếu ta hy vọng
điều ta không thấy, thì ta cứ kiên vững đợi trông (Rm 8,24-25).
+ Không phải là tôi đã đoạt
giải hay đã thành toàn, nhưng tôi đang ruổi theo để mà chụp lấy chiếm đoạt, bởi
chưng tôi đã được Đức Ki-tô chộp lấy. Tôi chưa kể mình là đã chiếm đoạt được
rồi, nhưng điều duy nhất là : quên phía sau mà lao mình tới trước, nhắm đích,
tôi chạy đến giải thưởng của ơn kêu gọi từ trên cao Thiên Chúa đã ban bố trong
Đức Ki-tô Giê-su (Pl 3,12-14).