Kinh Thánh
Thời kỳ
Sách
Chương
 
      Lm. Trịnh Ngọc Danh
Bài giảng
Thứ 3 sau CN 30 TN năm Chẵn
Âm thanh
Video
[ Bấm play 2 lần liên tiếp để xem video. Vui lòng chờ chút nếu kết nối mạng chậm ]
BÀI ĐỌC 1 VÀ 2 (NẾU CÓ)
BÀI ĐỌC : Ep 5, 21-33
21 Thưa anh em, vì lòng kính sợ Đức Ki-tô, anh em hãy tùng phục lẫn nhau.22 Người làm vợ hãy tùng phục chồng như tùng phục Chúa,23 vì chồng là đầu của vợ cũng như Đức Ki-tô là đầu của Hội Thánh, chính Người là Đấng cứu chuộc Hội Thánh, thân thể của Người.24 Và như Hội Thánh tùng phục Đức Ki-tô thế nào, thì vợ cũng phải tùng phục chồng trong mọi sự như vậy.
25 Người làm chồng, hãy yêu thương vợ, như chính Đức Ki-tô yêu thương Hội Thánh và hiến mình vì Hội Thánh;26 như vậy, Người thánh hoá và thanh tẩy Hội Thánh bằng nước và lời hằng sống,27 để trước mặt Người, có một Hội Thánh xinh đẹp lộng lẫy, không tỳ ố, không vết nhăn hoặc bất cứ một khuyết điểm nào, nhưng thánh thiện và tinh tuyền.28 Cũng thế, chồng phải yêu vợ như yêu chính thân thể mình. Yêu vợ là yêu chính mình.29 Quả vậy, có ai ghét thân xác mình bao giờ; trái lại, người ta nuôi nấng và chăm sóc thân xác mình, cũng như Đức Ki-tô nuôi nấng và chăm sóc Hội Thánh,30 vì chúng ta là bộ phận trong thân thể của Người.31 Sách Thánh có lời chép rằng: Chính vì thế, người đàn ông sẽ lìa cha mẹ mà gắn bó với vợ mình, và cả hai sẽ thành một xương một thịt.32 Mầu nhiệm này thật là cao cả. Tôi muốn nói về Đức Ki-tô và Hội Thánh.33 Vậy mỗi người trong anh em hãy yêu vợ như chính mình, còn vợ thì hãy kính sợ chồng.
ĐÁP CA : Tv 127
Đ.        Hạnh phúc những người kính sợ Chúa. (x c 1a)
1 Hạnh phúc thay bạn nào kính sợ Chúa, ăn ở theo đường lối của Người. 2 Công khó tay bạn làm, bạn được an hưởng, bạn quả là lắm phúc nhiều may.
3 Hiền thê bạn trong cửa trong nhà khác nào cây nho đầy hoa trái; và bầy con tựa những cây ô-liu mơn mởn, xúm xít tại bàn ăn.
4 Đó chính là phúc lộc Chúa dành cho kẻ kính sợ Người. 5 Xin Chúa từ Xi-on xuống cho bạn muôn vàn ơn phúc. Ước chi trong suốt cả cuộc đời bạn được thấy Giê-ru-sa-lem phồn thịnh.
 
BÀI TIN MỪNG
TUNG HÔ TIN MỪNG : x Mt 11,25
Hall-Hall : Lạy Cha là Chúa Tể trời đất, Con xin ngợi khen Cha, vì Cha đã mạc khải mầu nhiệm Nước Trời cho những người bé mọn. Hall.
TIN MỪNG : Lc 13,18-21
18 Vậy Người nói: "Nước Thiên Chúa giống cái gì đây? Tôi phải ví Nước ấy với cái gì?19 Nước Thiên Chúa giống như chuyện một hạt cải người nọ lấy gieo trong vườn mình. Nó lớn lên và trở thành cây, chim trời làm tổ trên cành được."
20 Người lại nói: "Tôi phải ví Nước Thiên Chúa với cái gì?21 Nước Thiên Chúa giống như chuyện nắm men bà kia lấy vùi vào ba thúng bột, cho đến khi tất cả bột dậy men."
 
BÀI GIẢNG
MẦU NHIỆM NƯỚC THIÊN CHÚA
 
Tin Mừng hôm nay (Lc 13,18-21), Đức Giê-su dùng ba hình ảnh để diễn tả về mầu nhiệm Nước Thiên Chúa :
·         Hạt cải : Diễn tả sứ mệnh của Hội Thánh là ô dù.
·         Men : Diễn tả sứ mệnh của Hội Thánh là cảm hóa lòng người.
·         Ba đấu bột : Diễn tả đức ái trong niềm hy vọng cứu độ.
1/ HẠT CẢI : SỨ MỆNH CỦA HỘI THÁNH LÀ Ô DÙ.
Đức Giê-su dùng hình ảnh hạt cải nhỏ bé, khi gieo xuống đất nó mọc lên thành cây lớn, trở thành nơi nương ẩn cho chim trời (x Lc 13,19 : Tin Mừng).
Hội Thánh được coi là nhỏ bé vì :
a- Số lượng nhỏ bé : Đức Giê-su có ý chọn 12 môn đệ để đặt làm nền tảng Hội Thánh, vậy mà Ngài huấn luyện họ suốt ba năm, trong số đó không nảy sinh mà còn mất đi một tên Giu-đa, cho nên lúc Đức Giê-su về trời, chỉ có 11/12 người được sai đi tiếp nối sứ mệnh của Ngài (x Mt 28,16).
Ngày hôm nay, nếu căn cứ vào bản chất của người xứng đáng làm môn đệ Chúa, thì số người lại càng ít hơn nữa, khiến Đức Giê-su phải rên lên : “Mùa màng nhiều, thợ gặt ít !” (Mt 9,37)
b- Lòng đạo nhỏ bé :
·         Đức tin không vững : Suốt ba năm Chúa huấn luyện Nhóm 12 để sai họ đi loan báo Tin Mừng, thế mà khi Chúa Giê-su Phục Sinh, Ngài sai họ đi làm chứng cho Ngài, trong số đó có người còn hồ nghi (x Mt 28,17).
·         Tội lỗi bản thân : Vị Tông Đồ nổi danh nhất trong Hội Thánh là ông Phao-lô, đã phải thú nhận sự yếu hèn của ông trước đòi hỏi nên thánh trong sứ mệnh, ông nói : “Sự lành tôi muốn, tôi không làm, còn sự dữ tôi không muốn, tôi lại cứ làm” (Rm 7,18-19).
·         Tranh quyền ham lợi : Nhiều người bề ngoài xem ra từ bỏ mọi sự theo Thầy Giê-su (x Mc 10,28), nhưng trong lòng họ vẫn mang tính sôi thịt, tranh nhau quyền bính, lợi nhuận : Không phải chỉ có từ thời Đức Giê-su, họ đã tranh nhau ngồi bên phải bên trái Thầy trong Nước Thiên Chúa (x Mt 20,20t), mà tật xấu ấy còn di căn đến các thế hệ sau, thậm chí vào thời trung cổ,từ năm 1378 – 1417, có ba vị tranh ngôi Giáo hoàng, thủ đô Hội Thánh mỗi ông đặt theo ý mình : Một ở Rô-ma, một ở Pháp, một ở Bỉ. Sự cố này kéo dài gần 1/2 thế kỷ.
c- Văn hóa kém: Các môn đệ Chúa chọn là những người thuộc giới lao động, có lẽ chỉ biết đọc biết viết, nên người thời ấy liệt họ vào những kẻ vô học thức (x Cv 4,13).
d- Quyền bính yếu : Những vị xây dựng mầu nhiệm Nước Thiên Chúa từ Thủ Lãnh là Đức Giê-su và những kẻ theo Ngài không có một tấc sắt để bảo vệ, các môn đệ bị đánh đòn và ra tù vào khám như cơm bữa, mà chẳng ai bênh vực (x Cv 12).
Thế nhưng Hội Thánh vẫn là ô dù che chở cho nhiều người. Cụ thể :
a)    Chữ quốc ngữ ở Việt Nam, nếu Hội Thánh không có mặt trên đất nước này, thì dân Việt vẫn còn dùng chữ Nôm, rất lạc hậu.
b)    Ảnh hưởng của Đức Giáo hoàng Pio thứ 12 trong thế chiến thứ hai :  Nếu ngài không lên tiếng ngăn cản ông Marconi chế ra vũ khí tiêu diệt biển người, thì chính quyền Ý đã dùng vũ khí ấy để bá chủ thế giới. Và cứ như thế thì đệ nhị thế chiến gây hậu quả khốc liệt, không lường !
c)     Nhờ uy tín của Đức Giáo hoàng Gio-an Phao-lô II mà sau khi ông Gióc-ba-chóp, Tổng bí thư cộng sản Liên xô hội kiến với ngài, ông đã làm cho thế giới trở nên một khối :  Đảng cộng sản Đông Âu tự tan rã ! Người ta hỏi ĐGH : “Có phải ngài xúi ông Gióc-ba-chóp làm như thế không?” Ngài trả lời : “Chân lý sẽ giải phóng con người (x Ga 8,32), tôi làm nhiệm vụ Chúa trao, là nhắc cho thế giới chân lý của Chúa Ki-tô” (x  Mt 28,20).
d)    Về âm nhạc, nhờ thầy Dòng Guion có sáng kiến định dấu 7 nốt nhạc, lấy từ âm một bản Thánh ca trong tiếng La-tinh.
e)    Thống nhất lịch dùng chung trên thế giới, trước thế kỷ thứ 15, mỗi nước tự đặt niên biểu cho mình, mãi đến thời Đức Giáo hoàng Grégorio thứ 13 (1505-1583), ngài lấy ngày Chúa Giáng Sinh làm mốc thời gian, lúc đó thế giới mới thống nhất lịch cần thiết cho những giao dịch và các quy ước giữa loài người.
2/ MEN TRONG BỘT : CHỨC NĂNG CỦA HỘI THÁNH LÀ CẢM HÓA LÒNG CON NGƯỜI.
Đức Giê-su dùng hình ảnh men vùi trong bột, không làm cho bột thối rữa, nhưng làm cho nó biến chất, hoặc để làm bánh, hoặc để làm rượu, cho mọi người hưởng dùng. Chỉ một chút men làm thay đổi cả thúng bột. Hình ảnh này diễn tả Giáo Hội đã dùng Lời Chúa làm men cảm hóa lòng người. Đan cử :
-          Nhờ Lời Chúa mà Hội Thánh hoán cải “sói Sao-lô” thành Tông Đồ Phao-lô xuất sắc (x Cv 9 ; 2Cr 11,5).
-          Nhờ chân lý Tin Mừng Hội Thánh rao giảng, mà xóa đi giai cấp nô lệ trong thế giới, mọi người phải tôn trọng nhau, sống bình đẳng.
-          Phim “Sám Hối” sản xuất từ Liên xô, một xã hội chủ trương chối bỏ thần thánh, nhưng tác giả cuốn phim này hoàn toàn lấy tư tưởng Ki-tô giáo chống lại chế độ độc tài, mà ông Vác-lam là hiện thân cho thể chế độc ác đó, nên ông biết ai hướng về Ki-tô giáo, cụ thể như một họa sĩ vẽ hình Đức Mẹ Đồng Trinh, vẽ hình Nhà Thờ, bị ông Vác-lam kết án là phá hoại xã hội, như lời ông lên án người họa sĩ : “Tại sao mày không vẽ một nữ lao động đang xây dựng xã hội, mà mày lại vẽ bà Ma-ri-a đồng trinh? Ích lợi gì cho xã hội? Tại sao mày không vẽ một nhà máy sản xuất vũ khí, mà mày lại vẽ một ngôi đền ? Hỏi ngôi đền có chống lại kẻ thù của nước ta không ?” Và ông còn lớn tiếng đe dọa mọi người rằng : “Tôi có khả năng bắt được con mèo đen trong phòng tối, dù trong phòng tối không có con mèo đen !” Cuốn phim này sản xuất trên 30 năm tại Liên xô mà không được trình chiếu, đến thời ông Gióc-ba-chóp lãnh đạo, ông cho chiếu rộng rãi ở nhiều nước xã hội chủ nghĩa từ năm 1987 - 1989. Chỉ ba năm sau khối cộng sản Đông Âu sụp đổ !
 Một số chứng từ trên đây minh chứng chức năng của Hội Thánh qua hình ảnh hạt cải mọc lên và men làm dậy thúng bột, đó chỉ là những dấu chỉ về ơn cứu độ Chúa thực hiện qua chân lý được công bố trong Hội Thánh của Ngài. Ơn cứu độ Chúa ban cho những kẻ sống trong mầu nhiệm Nước Thiên Chúa (Hội Thánh), chỉ được thực hiện trọn vẹn trong thời cánh chung. Do đó thánh Phao-lô nói : “Ơn cứu độ đến với ta như  một hy vọng, hy vọng mà thấy được ai còn hy vọng  nữa, nhưng nếu ta hy vọng điều ta không thấy, thì ta cứ kiên vững đợi trông.” (Rm 8,24-25). Cũng chính vì vậy mà thánh Phao-lô nói với giáo đoàn Phi-líp : “Ơn cứu độ vẫn còn ở phía trước chúng ta, đừng ai tưởng mình đã  nắm bắt trọn, chính tôi đang ruổi theo mà chụp lấy, chiếm đoạt, bởi chưng tôi đã được Đức Ki-tô chộp lấy. Vậy chúng ta hãy quên phía sau mà lao mình về phía trước, nhắm đích chạy đến giải thưởng của ơn kêu gọi từ trên cao Thiên Chúa đã ban bố trong Đức Ki-tô” (Pl 3,12-14).
Để khai triển niềm tin ơn cứu độ được trở nên hiện thực hơn lòng người ta mơ ước vào thời cánh chung, Đức Giê-su đã dùng hình ảnh thứ ba :
3/ NƯỚC TRỜI GIỐNG NHƯ NGƯỜI ĐÀN BÀ LẤY MEN VÙI VÀO BA ĐẤU BỘT (x Lc 13,21 : Tin Mừng).
Hình ảnh này nhắc cho mọi người nhớ đến bà Sa-ra, vợ ông Ab-ra-ham đã gần 100 tuổi mà chưa có con. Ngày kia thình lình có ba người khách đi ngang lều của ông bà, ông Ab-ra-ham vui vẻ đón ba người khách vào nhà rồi giết chiên, còn bà Sa-ra thì lấy ba đấu bột làm bánh đãi khách. Vợ chồng này chỉ tỏ lòng trắc ẩn tình người đối với khách lỡ đường, ai ngờ đâu khách đã chúc lành cho bà Sa-ra sinh con trai, đặt tên là I-sa-ac, I-sa-ac sinh ra Gia-cóp, rồi sinh ra 12 người con làm nên dân tộc Do-Thái. Từ dân tộc này, Đấng Cứu Thế xuất hiện, cũng thuộc dòng giống của tổ phụ Ab-ra-ham và Sa-ra. Bây giờ ông Ab-ra-ham và bà Sa-ra ở trên trời mới nhận ra giá trị  hiệu quả tuyệt vời chương trình cứu độ loài người của Thiên Chúa  đã khai mở từ hành động của bà Sa-ra lấy ba đấu bột làm bánh đãi khách. Sau khi Đức Giê-su, Con Một Thiên Chúa hoàn tất chương trình cứu độ loài người của Ngài qua mầu nhiệm Tử Nạn và Phục Sinh, đã làm cho biết bao nhiêu người được lên Thiên Đàng, sum họp quanh tổ phụ Ab-ra-ham và Sa-ra, có như vậy, hai ông bà mới nhận ra giá trị lời chúc phúc của Thiên Chúa : “Con cháu dòng tộc ông đông như sao trên trời như cát dưới biển” (St 22,17). Điều này khi ông Ab-ra-ham và bà Sa-ra còn sống chỉ mơ có một người con, vậy mà khi Thiên Chúa thực hiện lời hứa của Ngài, thì hai ông bà đông con cháu hơn lòng họ mơ ước !
Như thế gia đình tổ phụ Abraham và Sara là mầm nảy sinh Hội Thánh Chúa Ki-tô. Thực vậy, Hội Thánh Chúa Ki-tô được thai nghén từ gia đình Nadareth. Đó là lý do khi Đức Giê-su bắt đầu hoạt động công khai để khai sinh Hội Thánh, Ngài đã có mặt tại một gia đình vợ chồng khai mở tiệc cưới tại Cana.  Mẹ Maria với trải nghiệm làm chủ gia đình, vì lúc ấy ông Giuse đã qua đời, Mẹ muốn cho đôi tân hôn luôn có “rượu mới của tình yêu”, hương vị đậm đà hơn rượu cũ, nên Mẹ đã lên tiếng dặn dò người ta : “Giêsu bảo gì cứ làm theo” (Ga 2,5).
Thực vậy chỉ khi nào mọi thành phần trong gia đình thực hành Lời Đức Giê-su dạy, gia đình đó mới thực sự diễn tả Hội Thánh Chúa Ki-tô sống động nơi dương thế. Chính vì vậy mà thánh Phao-lô dạy : “Trong gia đình người chồng diễn tả sự hiện diện của Chúa Giê-su Ki-tô, người vợ diễn tả đời sống Đức Tin, Đức Cậy, Đức Ái của Hội Thánh” (x Ep 5,21-33).
Có thế gia đình mới được dồi dào “hạnh phúc vì kính sợ Chúa” (Tv 128/127, 1a).
Đức cố Giáo hoàng Gioan Phaolo II nhắc nhở cho các gia đình Ki-tô giáo : “Gia đình Ki-tô hữu là Thánh Điện của Hội Thánh, là tế bào đầu tiên và sinh động của xã hội, gia đình đã được Công Đồng Vat.II đề cao, coi như Thánh Điện của Hội Thánh, khi mọi người trong nhà yêu thương đùm bọc nhau, và cùng nhau dâng lời cầu nguyện lên Thiên Chúa. Gia đình Ki-tô hữu chỉ xuất hiện như một “Hội Thánh tại gia”, nếu các phần tử tùy theo môi trường và phận sự riêng biệt của mỗi người cùng nhau hoạt động để phát huy công lý, cùng nhau làm việc từ thiện, hiến thân phục vụ anh chị em, và trong một khung cảnh rộng lớn hơn, tham gia vào việc Tông Đồ và Kinh Phụng Vụ của cộng đoàn địa phương, cũng như cùng nhau dâng lên Chúa những lời cầu nguyện sốt sắng chân thành. Thiếu yếu tố này là thiếu hẳn đặc tính của gia đình Ki-tô giáo. Vì thế, nếu muốn tìm lại ý nghĩa thần học về gia đình, thì phải nhất thiết nỗ lực để tái lập thói quen cầu nguyện chung trong đời sống gia đình.
Với tư cách là “Thánh Điện tại gia của Hội Thánh”, gia đình nên cầu nguyện chung, và chẳng những thế mà còn phải tùy nghi sử dụng một vài phần trong các giờ Kinh Phụng Vụ, để kết hợp mật thiết hơn với Hội Thánh” (Trích Tông Huấn tôn sùng Đức Mẹ số 52 và 53).
Đức Cố Giáo hoàng Gioan 23 về quê thăm cha mẹ, ngài nói : “Thưa cha mẹ, hôm nay con được 50 tuổi, Chúa thương ban cho con nhiều chức trong Hội Thánh, đi nhiều nơi, học nhiều sách, nhưng không trường nào dạy dỗ con, làm ích cho con hơn thời gian con còn được ngồi bên cha mẹ”. Tưởng cũng nhắc lại khi ngài còn làm Hồng y, có lần ngài về thăm mẹ và khoe : “Đây là nhẫn Tổng Giám mục của con”. Bà mẹ không chịu thua giơ tay ra cho con xem và nói : “Cái nhẫn mỏng tanh này trên tay mẹ đáng hãnh diện hơn, vì nếu không có nhẫn cưới này, thì cũng chẳng có một Hồng y Roncalli”.
Vậy Chúa đã dùng ba loại vật chất : Hạt cải, men, ba đấu bột, để diễn tả về mầu nhiệm Nước Thiên Chúa. Đó là lý do thánh Phao-lô nói : “Vạn vật ngong ngóng trông đợi thấy ngày con cái Thiên Chúa được hiển dương… với hy vọng chính tạo vật cũng được tự do khỏi cảnh làm tôi mục nát, mà vào địa vị tự do vinh quang thuộc hàng con cái Thiên Chúa”. Nếu tạo vật còn được Chúa dùng để diễn tả về vinh quang con cái Thiên Chúa trong Hội Thánh, khi nó được tham dự vào vinh quang con cái Thiên Chúa, thì cả chúng ta nữa càng cần phải để Chúa sử dụng khi “chúng ta khao khát mong đợi được phúc làm nghĩa tử của Thiên Chúa, hầu thân xác ta cũng là vật chất khỏi phải làm tôi sự mục nát” (x Rm 8,18-24).
Tất cả những ai cảm nghiệm được phúc Chúa cứu độ trong mầu nhiệm Nước Thiên Chúa (Hội Thánh), họ đều cất tiếng ngợi khen : “Hạnh phúc thay những người kính sợ Chúa, ăn ở theo đường lối của Người, công khó bạn làm ra, bạn được an hưởng, bạn quả là lắm phúc nhiều may” (Tv 128/127,1-2).
THUỘC LÒNG
+ Ơn cứu độ đến với ta như  một hy vọng, hy vọng mà thấy được ai còn hy vọng  nữa, nhưng nếu ta hy vọng điều ta không thấy, thì ta cứ kiên vững đợi trông (Rm 8,24-25).
+ Không phải là tôi đã đoạt giải hay đã thành toàn, nhưng tôi đang ruổi theo để mà chụp lấy chiếm đoạt, bởi chưng tôi đã được Đức Ki-tô chộp lấy. Tôi chưa kể mình là đã chiếm đoạt được rồi, nhưng điều duy nhất là : quên phía sau mà lao mình tới trước, nhắm đích, tôi chạy đến giải thưởng của ơn kêu gọi từ trên cao Thiên Chúa đã ban bố trong Đức Ki-tô Giê-su (Pl 3,12-14).
 

Gửi phản hồi - thắc mắc

Tên của bạn *
Địa chỉ
Email *
Điện thoại
   
Câu hỏi

Lên đầu trang
Các bài giảng khác: