CHÚA NHẬT 3 MÙA CHAY- NĂM B: PHẢI CHẤP NHẬN ĐỔ MÁU MỚI CANH TÂN ĐỜI SỐNG ĐẠO
BÀI ĐỌC 1 VÀ 2 (NẾU CÓ) BÀI ĐỌC 1: Xh 20,1-17
Ngày ấy, trên núi
Xi-nai 1 Thiên Chúa phán tất cả
những lời sau đây: 2"Ta là Đức Chúa, Thiên Chúa của ngươi, đã đưa ngươi ra khỏi đất Ai-cập, khỏi
cảnh nô lệ.
3 Ngươi không được có
thần nào khác đối nghịch với Ta. 4 Ngươi không được tạc tượng, vẽ
hình bất cứ vật gì ở trên trời cao, cũng như dưới đất thấp, hoặc ở trong nước
phía dưới mặt đất, để mà thờ.
5 Ngươi không được phủ
phục trước những thứ đó mà phụng thờ: vì Ta, Đức Chúa , Thiên Chúa của ngươi,
là một vị thần ghen tương. Đối với những kẻ ghét Ta, Ta phạt con cháu đến ba
bốn đời vì tội lỗi của cha ông.6 Còn với những ai yêu mến Ta và giữ
các mệnh lệnh của Ta, thì Ta trọn niềm nhân nghĩa đến ngàn đời. 7
Ngươi không được dùng danh Đức Chúa, Thiên Chúa của ngươi, một cách bất xứng,
vì Đức Chúa không dung tha kẻ dùng danh
Người một cách bất xứng.
8 Ngươi hãy nhớ ngày
sa-bát, mà coi đó là ngày thánh.9 Trong sáu ngày, ngươi sẽ lao động
và làm mọi công việc của ngươi.10 Còn ngày thứ bảy là ngày sa-bát
kính Đức Chúa , Thiên Chúa của ngươi. Ngày đó, ngươi không được làm công việc
nào, cả ngươi cũng như con trai con gái, tôi tớ nam nữ, gia súc và ngoại kiều ở
trong thành của ngươi.11 Vì trong sáu ngày, Đức Chúa đã dựng nên
trời đất, biển khơi, và muôn loài trong đó, nhưng Người đã nghỉ ngày thứ bảy.
Bởi vậy, Đức Chúa đã chúc phúc cho ngày sa-bát và coi đó là ngày thánh.
12 Ngươi hãy thờ cha kính
mẹ, để được sống lâu trên đất mà Đức Chúa, Thiên Chúa của ngươi, ban cho ngươi.
13 Ngươi không được giết người.
14 Ngươi không được ngoại
tình.
15 Ngươi không được trộm
cắp.
16 Ngươi không được làm
chứng gian hại người.
17 Ngươi không được ham
muốn nhà người ta, ngươi không được ham muốn vợ người ta, tôi tớ nam nữ, con bò
con lừa, hay bất cứ vật gì của người ta."
ĐÁP CA: Tv 18B
Đ. Lạy
Chúa, Chúa mới có những Lời đem lại sự sống đời đời. (Ga 6,68c)
8 Luật
pháp Chúa quả là hoàn thiện, bổ sức cho tâm hồn. Thánh ý Chúa thật là vững
chắc, cho người dại nên khôn.
9 Huấn
lệnh Chúa hoàn toàn ngay thẳng, làm hoan hỷ cõi lòng. Mệnh lệnh Chúa xiết bao
minh bạch, cho đôi mắt rạng ngời.
10 Lòng
kính sợ Chúa luôn trong trắng, tồn tại đến muôn đời. Quyết định Chúa phù hợp chân
lý, hết thảy đều công minh.
11 Thật
quý báu hơn vàng, hơn vàng y muôn lượng, ngọt ngào hơn mật ong, hơn mật ong
nguyên chất.
BÀI ĐỌC 2: 1Cr 1,22-25
Thưa anh em 22
trong khi người Do-thái đòi hỏi những điềm thiêng dấu lạ, còn người Hy-lạp tìm
kiếm lẽ khôn ngoan,23 thì chúng tôi lại rao giảng một Đấng Ki-tô bị
đóng đinh, điều mà người Do-thái coi là ô nhục không thể chấp nhận, và dân
ngoại cho là điên rồ.24 Nhưng đối với những ai được Thiên Chúa kêu
gọi, dù là Do-thái hay Hy-lạp, Đấng ấy chính là Đức Ki-tô, sức mạnh và sự khôn
ngoan của Thiên Chúa.25 Vì cái điên rồ của Thiên Chúa còn hơn cái
khôn ngoan của loài người, và cái yếu đuối của Thiên Chúa còn hơn cái mạnh mẽ
của loài người.
BÀI TIN MỪNG TUNG HÔ TIN MỪNG: Ga 3,16
Thiên Chúa yêu thế gian đến nỗi đã ban Con Một, để ai tin
vào Con của Người thì khỏi phải chết, nhưng được sống muôn đời.
TIN MỪNG: Ga 2,13-25
13 Gần đến lễ Vượt Qua của người Do-thái, Đức
Giê-su lên thành Giê-ru-sa-lem.14 Người thấy trong Đền Thờ có những
kẻ bán chiên, bò, bồ câu, và những người đang ngồi đổi tiền.15 Người
liền lấy dây làm roi mà xua đuổi tất cả bọn họ cùng với chiên bò ra khỏi Đền
Thờ; còn tiền của những người đổi bạc, Người đổ tung ra, và lật nhào bàn ghế
của họ.16 Người nói với những kẻ bán bồ câu: "Đem tất cả những
thứ này ra khỏi đây, đừng biến nhà Cha tôi thành nơi buôn bán."17
Các môn đệ của Người nhớ lại lời đã chép trong Kinh Thánh: Vì nhiệt tâm lo việc
nhà Chúa, mà tôi đây sẽ phải thiệt thân.
18 Người Do-thái hỏi Đức
Giê-su: "Ông lấy dấu lạ nào chứng tỏ cho chúng tôi thấy là ông có quyền
làm như thế? "19 Đức Giê-su đáp: "Các ông cứ phá huỷ Đền
Thờ này đi; nội ba ngày, tôi sẽ xây dựng lại."20 Người Do-thái
nói: "Đền Thờ này phải mất bốn mươi sáu năm mới xây xong, thế mà nội trong
ba ngày ông xây lại được sao? "21 Nhưng Đền Thờ Đức Giê-su muốn
nói ở đây là chính thân thể Người.22 Vậy, khi Người từ cõi chết trỗi
dậy, các môn đệ nhớ lại Người đã nói điều đó, Họ tin vào Kinh Thánh và lời Đức
Giê-su đã nói. 23 Trong lúc Đức Giê-su ở
Giê-ru-sa-lem vào dịp lễ Vượt Qua, có nhiều kẻ tin vào danh Người bởi đã chứng
kiến các dấu lạ Người làm.24 Nhưng chính Đức Giê-su không tin họ, vì
Người biết họ hết thảy,25 và không cần ai làm chứng về con người.
Quả thật, chính Người biết có gì trong lòng con người.
BÀI GIẢNG PHẢI CHẤP NHẬN ĐỔ MÁU
MỚI CANH TÂN ĐỜI SỐNG ĐẠO
Giáo huấn Chúa nhật II
Mùa Chay năm B, Chúa Cha đòi buộc loài người phải “nghe Lời Con Yêu Dấu của Ta”
(Mc 9,7). Nhưng sau đó Đức Giêsu cấm các môn đệ nói lời ấy với bất cứ ai cho
đến khi Ngài từ cõi chết sống lại, và ta đã hiểu rằng: Nghe Lời Con Chí Ái của Chúa Cha chính là nghe lời Hội Thánh Công Giáo công bố Lời Chúa trong Phụng Vụ (x
Dt 1,1-2). Mà Đức Giêsu đã khẳng định: “Anh
em đừng tưởng Thầy đến để bãi bỏ Luật Môsê hoặc lời các ngôn sứ. Thầy đến không
phải là để bãi bỏ, nhưng là để kiện toàn” (Mt 5,17). Như thế Con Chí Ái của
Chúa Cha và Hội Thánh giảng dạy đều nhắm làm hoàn hảo Giao Ước Chúa đã lập với dân Israel. Muốn
làm cho giá trị giao ước cũ được hoàn hảo sinh ơn cứu độ, Đức Giêsu phải trả
giá đắt là đành mất mạng sống mới canh tân đổi mới được cả một truyền thống cơ
cấu quyền bính đã từng dạy và thực hành Luật bất toàn thời Cựu Ước.
Thực vậy, đời sống của
các tư tế thuộc tộc Lêvi đã được Luật Môsê quy định: “Các tư tế Lê-vi, toàn thể chi tộc Lê-vi, sẽ
không được chung phần và hưởng gia nghiệp với Ít-ra-en: họ sẽ sống nhờ các lễ
hoả tế dâng ĐỨC CHÚA và nhờ gia nghiệp của Người. Họ không có gia nghiệp giữa các chi
tộc anh em: chính ĐỨC CHÚA là gia nghiệp của họ, như Người đã phán với họ.Đây là quyền lợi các tư tế được hưởng trên dân,
trên những người dâng bò hay chiên dê làm lễ hy sinh: người ta sẽ biếu tư tế
một cái vai, hai cái hàm và cái dạ dày. Anh (em) phải biếu tư tế sản phẩm
đầu mùa lấy từ lúa mì, rượu mới, dầu tươi của anh (em), và từ lông chiên dê mới
xén” (Dnl 18,1-4). Thế mà Đức Giêsu lại vô cùng phẫn nỗ chưa từng thấy
trong đời của Ngài, vì truyền thống sinh hoạt của hàng tư tế vào “dịp lễ Vượt Qua là một Đại Lễ quan trọng nhất của Phụng Vụ Do Thái giáo, Ngài vào thánh
điện Giêrusalem lấy dây làm roi đánh đuổi tất cả những bọn buôn bán chiên bò,
bồ câu ra khỏi Đền Thờ ; còn tiền của những người đổi bạc, Ngài đổ tung ra và
lật nhào bàn ghế của họ, Ngài nói: “Hãy
đem tất cả những thứ này ra khỏi đây đừng biến Nhà Ta thành nơi buôn bán”
(Ga 2,13-16: Tin Mừng).
Sở dĩ Đức Giêsu bạo
hành như thế vì ba lý do :
- Sứ mệnh của Ngài là
làm hoàn hảo Luật.
- Đền Thờ là nơi cầu
nguyện không ai được biến thành cái chợ.
- Nơi Đền Thờ vật chất,
hàng tư tế phải làm cho các tín hữu trở nên Đền Thờ đích thực để Chúa ngự.
I. ĐỨC
GIÊSU ĐẾN ĐỂ LÀM HOÀN HẢO LUẬT
Luật Phụng Vụ Do Thái
giáo là trung tâm đời sống Đức Tin của dân Chúa đã tuyển chọn. Sách Luật dạy
vào dịp lễ Vượt Qua phải sát tế chiên cừu bò lừa để dâng lên Chúa (x Dnl 16,2).
Nhưng đó chỉ là hình bóng báo trước Phụng Vụ Đức Giêsu thiết lập. Tác giả thư
Do Thái viết: “Máu
các con bò, con dê không thể nào xoá được tội lỗi. Vì vậy, khi vào trần gian,
Đức Ki-tô nói: Chúa đã không ưa hy lễ và hiến tế, nhưng đã tạo cho con một thân
thể. Chúa
cũng chẳng thích lễ toàn thiêu và lễ xá tội. Bấy giờ con mới thưa: Lạy Thiên
Chúa, này con đây, con đến để thực thi ý Ngài, như Sách Thánh đã chép về con.
Trước hết, Đức Ki-tô nói: Hy lễ và hiến tế, lễ toàn thiêu và lễ xá tội, Chúa đã
chẳng ưa, chẳng thích, mà đó chính là những thứ của lễ được dâng tiến theo Lề
Luật truyền. Rồi Người nói: Này con đây, con đến để thực thi ý Ngài. Thế là
Người bãi bỏ các lễ tế cũ mà thiết lập lễ tế mới. Theo ý đó, chúng ta được
thánh hoá nhờ Đức Giê-su Ki-tô đã hiến dâng thân mình làm lễ tế, chỉ một lần là
đủ” (Dt 10,4-10). Đó là lý do Đức Giêsu đã nói với người phụ nữ Samari: “Này chị, hãy tin tôi: đã đến giờ các người
sẽ thờ phượng Chúa Cha, không phải trên núi này hay tại Giê-ru-sa-lem.Các người thờ Đấng các người không biết ; còn
chúng tôi thờ Đấng chúng tôi biết, vì ơn cứu độ phát xuất từ dân Do Thái. Nhưng
giờ đã đến-và chính là lúc này đây-giờ những người thờ phượng đích thực sẽ thờ
phượng Chúa Cha trong Thần Khí và Sự Thật, vì Chúa Cha tìm kiếm những ai thờ
phượng Người như thế. Thiên Chúa là Thần Khí, và những kẻ thờ phượng Người phải
thờ phượng trong Thần Khí và Sự Thật” (Ga 4,21-24).
Ai thờ phượng Thiên
Chúa theo thể thức Đức Giêsu dạy như thế mới chu toàn phần thứ I của Thập Giới
về Luật Mến Chúa. Chúa phán: “Ngươi không
được có thần nào khác đối nghịch với Ta. Kẻ nào ghét Ta, Ta phạt con cháu đến
ba bốn đời vì tội lỗi của cha ông. Còn những ai yêu mến Ta và giữ các mệnh lệnh
của Ta, thì Ta trọn niềm nhân nghĩa đến ngàn đời. Ngươi không được dùng danh
Chúa một cách bất xứng. Hãy nhớ ngày Sabbat mà coi đó là ngày thánh. Trong sáu
ngày ngươi sẽ lao động và làm mọi công việc của ngươi. Còn ngày thứ bảy ngươi
không được làm công việc nào” (x Xh
20, 3-10: Bài đọc I).
Và quyền làm cho Luật
trở nên hoàn hảo, Chúa Giêsu cũng trao cho Hội Thánh, như Ngài đã nói với các
môn đệ: “Thầy
còn nhiều điều phải nói với anh em. Nhưng bây giờ, anh em không có sức chịu
nổi. Khi nào Thần Khí sự thật đến, Người sẽ dẫn anh em tới sự thật toàn vẹn.
Người sẽ không tự mình nói điều gì, nhưng tất cả những gì Người nghe, Người sẽ
nói lại, và loan báo cho anh em biết những điều sẽ xảy đến” (Ga 16,12-13). Vì
vậy Hội Thánh được Chúa Thánh Thần hướng dẫn đã thay đổi và canh tân Luật Phụng
Vụ:
F Theo Điều răn I thì: “Ngươi không
được tạc tượng thần” (Xh 20,4: Bài đọc I), nhưng trong Hiến Chế Phụng
Vụ số 125, Hội Thánh lại dạy: “Phải cương
quyết duy trì thói quen đặt ảnh tượng thánh trong nhà thờ cho các tín hữu tôn
kính.” Và Quy Chế sách Lễ Roma số 278 viết: “Theo truyền thống rất cổ kính
trong Hội Thánh, được phép đặt các ảnh tượng Chúa, Đức Trinh Nữ Maria và Các
Thánh trong các Thánh Đường để giáo dân tôn kính. Mỗi vị Thánh chỉ nên có một
ảnh tượng”. Bởi đó chắc chắn Hội Thánh không muốn trong một Nhà Thờ có
nhiều tượng ảnh Đức Mẹ. Rất tiếc Luật này nhiều nơi không tôn trọng: cùng trong
một Nhà Thờ nào là Mẹ Fatima, nào là Mẹ Lộ Đức, như thế cũng chưa đủ nên phải đặt thêm tượng Mẹ
LaVang, ảnh Mẹ Hằng Cứu Giúp v.v…
Sở dĩ ông Môsê cấm dân
đúc ảnh tượng là vì dân Do Thái chỉ thờ một Thiên Chúa vô hình, nên trong đền
thờ Giêrusalem chỉ đặt hai bia đá ghi Lời Chúa mà ông Môsê đã nhận nơi Chúa từ núi
Sinai, khác với dân ngoại, thờ đủ mọi hình tượng theo ý người ta họa dựa vào
hình ảnh vạn vật trong vũ trụ (x Kn 13). Tuy nhiên có lúc ông Môsê bảo dân: “Đúc
con rắng đồng treo lên, ai bị rắn cắn cứ nhìn lên nó, thì được thoát chết!”
(x Ds 21,4-9) Điều ấy không phải tự con rắn có phép mầu cứu người khỏi chết, mà
đó chỉ là dấu tiên báo vào thời Tân Ước, ai nhìn lên Đức Giêsu bị đóng đinh,với
lòng tin, lòng cậy, chắc chắn được ơn hơn những người nhìn lên con rắn đồng.
Thực vậy, đã có rất nhiều người tin Đức Giêsu là Thiên Chúa Cứu Độ, nên chỉ cần
đụng đến tua áo choàng của Đức Giêsu là được ơn (x Mc 6,56).
F Theo Điều răn III
thì: “Ngày thứ bảy, ngươi và mọi súc vật
phải nghỉ việc” (x Xh 20,8-11), nhưng Hội Thánh đã đổi Luật ngày thứ
bảy sang ngày Chúa nhật và không khắt khe buộc giữ như Luật Sabbat người Do
Thái phải tuân thủ. Sở dĩ Hội Thánh thay đổi vì ba lý do:
* Xh 20,8-11: Isarael phải nghỉ ngày thứ bảy, để mừng công
trình Chúa tạo dựng muôn loài trong vũ trụ vô cùng tốt đẹp, và Ngài đã dùng làm
quà tặng ban cho loài người. Đó chỉ là
dấu tiên báo vào ngày Chúa nhật, ngày thứ tám trong tuần, Chúa Giêsu từ cõi
chết sống lại, ai tin vào Ngài là Đấng cứu độ duy nhất (x Cv 4,12), thì được
tái sinh làm con Thiên Chúa, là một tuyệt tác nhất trong muôn loài Chúa tạo
dựng, nên Luật Hội Thánh buộc mọi người phải dự Lễ ngày Chúa nhật trong niềm
vui mừng và biết ơn (x HCPV số 106).
* Dnl 5,12-15: Israel phải nghỉ ngày thứ bảy để tạ ơn Thiên
Chúa vì Ngài cứu dân Do Thái thoát ách nô lệ Ai Cập. Đó cũng chỉ là biến cố tiên báo vào ngày Chúa nhật Chúa Giêsu sống lại,
Ngài cứu những kẻ tin vào Ngài thoát nô lệ Satan khởi đi từ lúc họ lãnh nhận Bí
tích Thánh Tẩy.
* Xh 24,16-18 . 34,28: Israel phải nghỉ ngày thứ bảy để tạ
ơn Chúa vì Ngài đã ban Luật cho dân Do Thái ở núi Sinai. Nhưng đó là biến cố tiên báo vào ngày Chúa nhật Đức Giêsu sai Thánh
Thần đến với các môn đệ vào ngày lễ Ngũ Tuần, để các ông loan báo Lời Chúa cho
toàn thể các dân tộc tuốn đến nghe Lời Chúa do các ngài công bố (x Cv 2).
Ta biết phạm trù về
Thiên Chúa thì phong phú bất tận. Vì ý nghĩa về một đối tượng rất phong phú
dường như bất tận. Ví dụ: Nếu một người từ cung trăng xuống trái đất lượm cục
đất sét:
Ø Hỏi nhà điêu khắc thì
được biết nó dùng để nắn tượng.
Ø Hỏi người nhà nông thì
biết thêm đất này trồng tỉa không tốt.
Ø Hỏi một nhà khoa học,
thì sẽ biết thêm đây là một kết cấu các dương điện tử, âm điện tử quanh một
trung hòa tử…
Tìm hiểu một cục đất
sét thôi, đã đem lại cho chúng ta nhiều kiến thức về nó, huống hồ tìm hiểu về
Thiên Chúa, thì còn phong phú biết mấy! Thánh Tông Đồ nói: “Ôi sự giàu có,khôn ngoan và thông suốt của
Thiên Chúa sâu thẳm dường nào! Quyết định của người ai dò cho thấu! Đường lối
của Người, ai theo dõi được” (Rm 11,33). Bởi đó Hội Thánh có sứ mệnh mỗi
ngày làm cho con cái mình được thêm phong phú về Đức Tin, hiểu biết thêm về
Thiên Chúa.
II. ĐỀN THỜ LÀ NƠI CẦU NGUYỆN KHÔNG AI ĐƯỢC BIẾN
THÀNH CÁI CHỢ
Đỉnh cao và trọng tâm
việc cầu nguyện nơi Đền Thờ mà Đức Giêsu muốn phải là Thánh Lễ. Ngài đã mất
mạng sống để thiết lập Hy Tế này và truyền cho Hội Thánh cử hành theo thể thức
Ngài dạy. Thánh Tông Đồ nói: “Điều tôi đã
lãnh nhận từ nơi Chúa, tôi xin truyền lại cho anh em: trong đêm bị nộp, Chúa
Giê-su cầm lấy bánh,dâng lời tạ ơn, rồi bẻ
ra và nói: “Đây là Mình Thầy, hiến dâng vì anh em; anh em hãy làm việc này, mà
tưởng nhớ đến Thầy.” Cũng thế, sau bữa ăn, Người cầm lấy chén rượu và nói: “Chén
này là Giao Ước Mới, lập bằng Máu Thầy; mỗi khi uống, anh em hãy làm việc này,
mà tưởng nhớ đến Thầy”.Thật vậy, cho tới
ngày Chúa đến, mỗi lần ăn Bánh và uống Chén này, là anh em loan truyền Chúa đã
chịu chết” (1Cr 11,23-26).
Thể thức thi hành Hy
Tế của Đức Giêsu không phải chỉ là làm đúng nghi thức, mà tất cả những người
hiệp dâng Thánh Lễ với Ngài phải sống như thánh Phaolô nói: “Giờ đây, tôi vui mừng được chịu đau khổ vì
anh em. Những gian nan thử thách Đức Ki-tô còn phải chịu, tôi xin mang lấy vào
thân cho đủ mức, vì lợi ích cho thân thể Người là Hội Thánh” (Cl 1,24). Thế
nên những kẻ đến Đền Thờ dâng tiền của với mục đích xin ơn, ai được như ý mới
tôn vinh Thiên Chúa là Đấng giàu lòng thương xót, thì quả là người ấy đã biến
Đền Thờ thành cái chợ, họ đổi của hèn lấy của trọng. Đối với những kẻ đến Nhà
Thờ để được thấy phép lạ Chúa làm mới tin vào Ngài, thì Đức Giêsu không tín
nhiệm những người như thế (Ga 2,23-24: Tin Mừng).
III. NƠI
ĐỀN THỜ VẬT CHẤT, HÀNG TƯ TẾ PHẢI LÀM CHO CÁC TÍN HỮU TRỞ NÊN ĐỀN THỜĐÍCH THỰC ĐỂ CHÚA NGỰ (x 1Cr 3,16-17)
Thực vậy, nơi Đền Thờ
các tư tế phải làm cho các tín hữu trở nên Đền Thờ của Thiên Chúa, bằng cách
làm cho tín hữu thấm nhuần Lời Chúa. Thánh Tông Đồ nói: “Anh em là bức thư của Đức Ki-tô được giao
cho chúng tôi viết, không phải viết bằng mực đen, nhưng bằng Thần Khí của Thiên
Chúa hằng sống, không phải ghi trên những tấm bia bằng đá, nhưng trên những tấm
bia bằng thịt, tức là lòng người” (2Cr 3,3). Như thế xưa kia Lời Chúa được
ghi trên hai tấm bia đá trao cho ông Môsê, hai bia đá đó đã được đặt trong nơi
Cực Thánh của đền thờ Giêrusalem, thì vào thời Tân Ước, ai được Lời Chúa khắc
ghi trên tấm linh hồn và xương thịt, người ấy mới đích thực là Đền Thờ của
Thiên Chúa ngự (x 1Cr 3,16-17). Chính vì vậy mà ngôn sứ Giêrêmia nói: “Vừa gặp Lời Chúa tôi nuốt chửng, Lời Chúa
làm hoan lạc đời tôi, vì trên tôi Danh Chúa được kêu khấn” (Gr 15,16 – Bản
dịch NTT). Thế nên khi cử hành Phụng Vụ, chủ tế phải làm cho các tín hữu trở
thành Đền Thờ đích thực của Thiên Chúa mới là chu toàn phần thứ hai của Thập
Giới về Luật Yêu Người. Chúa phán: “Ngươi
hãy thờ cha kính mẹ, không được giết người. Không được ngoại tình. Không được
trộm cắp. Không được làm chứng gian hại người. Không được ham muốn nhà người
khác, cũng như không được ham muốn vợ người, tôi tớ nam nữ, con bò, con lừa,
hay bất cứ vật gì của người ta” (x Xh 20,12-17: Bài đọc I).
Thế mà nhiều kẻ tự hào
là thầy dạy và sống Luật Môsê lại không làm như thế, khiến Đức Giêsu lên tiếng
khiển trách: “Khốn cho các người, hỡi các
kinh sư và người Pharisêu giả hình ! Các người nuốt hết tài sản của các bà goá,
lại còn làm bộ đọc kinh cầu nguyện lâu giờ, cho nên các người sẽ bị kết án
nghiêm khắc hơn.“Khốn cho các người, hỡi
các kinh sư và người Pharisêu giả hình ! Các người rảo khắp biển cả đất liền để
rủ cho được một người theo đạo; nhưng khi họ theo rồi, các người lại làm cho họ
đáng xuống hoả ngục gấp đôi các người” (Mt 23,14-15).
Khi Đức Giêsu vào Đền
Thờ đánh đuổi bọn buôn bán, Ngài đã nhìn thấy trước hàng giáo sĩ phục vụ Đền
Thờ sẽ lấy cớ này và lời Ngài nói “cứ phá Đền Thờ nội ba ngày Ta sẽ xây dựng
lại”, mà cáo tội trước tòa án Do Thái nhằm giết Ngài: “Tên này đã nói: “Ta có thể triệt
hạ Đền Thờ Thiên Chúa, và trong vòng ba ngày sẽ xây dựng lại” (x Ga
2,19 = Mt 26,61). Nhưng khi Đức Giêsu bị giết, Ngài mới thực sự thay thế và làm
hoàn hảo Phụng Vụ Do Thái giáo.
Đức Giêsu cũng răn đe
những kẻ đã được Hội Thánh làm cho trở nên Đền Thờ của Thiên Chúa, nhưng rồi
người ấy vì muốn thỏa mãn các dục vọng, tạo cớ cho Satan đến thế chỗ Thiên Chúa,
vì ai phạm tội thì xua đuổi Chúa ra khỏi tâm hồn. Đức Giêsu nói về tình trạng
người này: “Khi thần ô uế xuất khỏi một
người, thì nó đi rảo qua những nơi khô cháy, tìm chốn nghỉ ngơi mà tìm không
ra. Bấy giờ nó nói: ‘Ta sẽ trở về nhà ta, nơi ta đã bỏ ra đi. Khi đến nơi, nó
thấy nhà để trống, lại được quét tước, trang hoàng hẳn hoi. Nó liền đi kéo thêm bảy thần khác dữ
hơn nó, và chúng vào ở đó. Rốt cuộc, tình trạng của người ấy lại còn tệ hơn
trước” (Mt 12,43-45). Dựa vào Lời Đức Giêsu nói thế, ta có quyền khẳng định:
Muốn tìm một người thánh thiện nhất trên
thế gian, phải tìm nơi người tín hữu Công Giáo ; trái lại, muốn tìm một người
độc ác nhất trên trái đất này, cũng phải tìm
nơi người Công Giáo.
Vậyđể thi hành Lệnh Chúa Cha truyền: “Hãy nghe Lời Con Yêu Dấu của Ta”, người
Công Giáo phải sống Đạo như kẻ điên; Đức Giêsu đánh đuổi quân buôn bán khỏi Đền
Thờ dưới con mắt người đời Ngài là kẻ điên khùng. Vì “Thiên Chúa yêu thế gian, đến nỗi đã ban Con Một, để ai tin vào Con của
Người thì khỏi phải chết, nhưng được sống muôn đời” (Ga 3,16: Tung Hô Tin
Mừng). Do đó, những ai muốn được kết hợp với Chúa Giêsu để được cứu độ, thì
cũng phải sống Đạo xem ra như kẻ điên khùng. Vì thế thánh Tông Đồ nói: “Trong khi người Do Thái đòi hỏi những điềm
thiêng dấu lạ, còn người Hy Lạp tìm kiếm lẽ khôn ngoan, thì chúng tôi lại rao
giảng một Đấng Kitô bị đóng đinh, điều mà người Do Thái coi là ô nhục không thể
chấp nhận, và dân ngoại cho là điên rồ. Nhưng đối với những ai được Thiên Chúa
kêu gọi, dù là Do Thái hay Hy Lạp, Đấng ấy chính là Đức Kitô, sức mạnh và sự
khôn ngoan của Thiên Chúa. Vì cái điên rồ của Thiên Chúa còn hơn cái khôn ngoan
của loài người, và cái yếu đuối của Thiên Chúa còn hơn cái mạnh mẽ của loài
người” (1Cr 1,22-25: Bài đọc II). Chính vì vậy mà triết gia Kierkegaard nói:
“Làm một Kitô hữu mà không có chút điên
khùng, thì chỉ là một Biệt phái giả hình”. Bởi vì “Chúa mới có những Lời đem lại sự sống đời đời” (Ga 6,68c: Đáp ca).
THUỘC LÒNG
Dân Chúa được đoàn tụ trước hết là nhờ Lời Chúa hằng sống,
Lời ấy đặc biệt phải tìm thấy nơi miệng lưỡi các linh mục. (Vat.II Chức Vụ Và
Đời Sống Linh Mục số 4).
Linh mục GIUSE ĐINH QUANG
THỊNH
|