BÀI GIẢNG
CHÚA
GIÊSU LÀ ÔNG MÔSÊ MỚI
GIẢI
PHÓNG CON NGƯỜI
Đọc lại lịch sử dân
tộc Do Thái trong sách Xuất hành cho thấy dân tộc này thời còn cư trú tại đất
Ai Cập dưới sự bảo trợ của ông Giuse,họ là dân tộc vĩ đại nhất, nhưng khi ông
Giuse qua đời đế quốc Ai Cập sợ dân Do Thái trổi vượt hơn họ nên vua Pharaon ra
sắc lệnh thẳng tay trừng trị bắt dân Do Thái phải lao động cật lực, dù dân
không có điều kiện để làm việc, nhưng vẫn phải cung cấp đầy đủ những sản phẩm
cho đế quốc, làm cho đế quốc thêm giàu mạnh. Đàn bà Do Thái sinh con trai phải
ném con xuống sông cho chết, riêng ông Môsê được mẹ đặt vào cái thúng và buông
trôi sông Nil, rất may chú bé Môsê được công chúa vua Pharaon vớt lên từ nước
đem về nuôi trong cung điện. Sau này ông Môsê được Chúa dùng lãnh đạo tổ chức
đưa dân vượt qua biển Đỏ thoát nô lệ Ai Cập, tiến về miền đất chảy sữa và mật,
để được tự do thờ phượng Thiên Chúa. Sứ mệnh của ông Môsê đúng với tên của ông
theo ngôn ngữ Do Thái có nghĩa là được vớt
lên từ nước .
Theo Tin Mừng Mt 2,12:
“Từ Ai Cập, Ta đã gọi Con Ta về”. Ông
Mt ghi nhận câu này trong hoàn cảnh Hài Nhi Giêsu là Vua người Do Thái mới
sinh, bị vua Hêrôđê truy lùng để diệt. Nhưng sau khi cha mẹ Ngài bồng Con trốn
qua Ai Cập, rồi Ngài được trở về quê hương,để trở thành ông Môsê Mới, vì từ
dòng sông Giođan nơi ông Gioan Bt làm phép rửa cho, Ngài được Chúa Cha vớt lên từ nước để lãnh đạo muôn dân
giải thoát khỏi nô lệ satan, thoát tay tử thần. Bởi đó ông Phêrô rao giảng về
Phép Rửa của Đức Giêsu được môn đệ Marco
ghi lại: “Hồi ấy,
Đức Giê-su từ Na-da-rét miền Ga-li-lê đến, và được ông Gio-an làm phép rửa dưới
sông Gio-đan. Vừa lên khỏi nước, Người liền thấy các tầng trời xé ra, và thấy
Thần Khí như chim bồ câu ngự xuống trên mình. Lại có tiếng từ trời phán rằng: “Con
là Con yêu dấu của Cha, Cha hài lòng về Con.” (Mc 1, 9-11: Tin Mừng).
Điều ta cần lưu ý nhất
là “Đức
Giêsu vừa lên khỏi nước, Ngài thấy các tầng trời xé ra, và thấy Thần Khí tựa
như chim bồ câu ngự xuống trên mình”. Ở đây mạc khải muốn nhắc lại
những hình ảnh trong thời Cựu Ước nói về lịch sử Chúa cứu dân Israel :
1/ “Đức Giêsu vừa lên
khỏi nước”: Ngài chính là ông Môsê Mới được Chúa Cha tuyển chọn vớt lên từ
nước sông Giođan, để cứu cả loài người thoát nô lệ satan hơn xưa ông Môsê được
vớt lên từ nước Chúa đã dùng ông để cứu dân Do Thái thoát nô lệ Ai Cập.
2/ “Ngài thấy các tầng TRỜI
XÉ ra”: Làm cho ta nhớ đến cảnh lầm than khốn nạn của dân Israel, vì
dân này không nghe lời các ngôn sứ, nên Chúa để cho đế quốc Babylon bắt làm nô
lệ, trong cảnh tủi nhục đau khổ này, ngôn sứ Isaia lên tiếng an ủi họ, ông thưa
cùng Chúa: “Từ lâu rồi, chúng con là
những kẻ không còn được Ngài cai trị,không còn được cầu khẩn danh Ngài. Phải
chi Ngài XÉ TRỜI mà ngự xuống, cho
núi non rung chuyển trước Thánh Nhan. Người
ta chưa nghe nói đến bao giờ,tai chưa hề nghe, mắt chưa hề thấy có vị thần nào,
ngoài Chúa ra, đã hành động như thế đối với ai tin cậy nơi mình. Ngài đón
gặp kẻ sống đời công chính mà lấy làm vui và nhớ đến Ngài khi theo đường lối
Ngài chỉ dạy. Kìa, Ngài phẫn nộ vì tội lỗi chúng con,nhưng khi mải đi theo các
đường lối của Ngài, chúng con sẽ được cứu thoát. Tất cả chúng con đã trở nên như người nhiễm uế, mọi việc lành của chúng
con khác nào chiếc áo dơ.Tất cả chúng con héo tàn như lá úa, và tội ác
chúng con đã phạm, tựa cơn gió, cuốn chúng con đi.Không có ai cầu khẩn danh
Chúa, cũng chẳng ai tỉnh dậy mà níu lấy Ngài,vì Ngài đã ngoảnh mặt không nhìn
đến, và để cho tội ác chúng con phạm mặc sức hành hạ chúng con. Thế nhưng, lạy
ĐỨC CHÚA, Ngài là Cha chúng con ; chúng con là đất sét, còn thợ gốm là Ngài,
chính tay Ngài đã làm ra tất cả chúng con” (Is 63,19 ; 64,2b-7).
Ngôn sứ Isaia thưa với
Chúa như thế rất thích hợp với tâm trạng của loài người đang đắm chìm trong tội
lỗi, ước mong được Chúa thương giải cứu khởi đi từ Bí tích Khai Tâm (Thánh Tẩy,
Thêm Sức, Thánh Thể). Quả thật, nếu ta không được kết hợp với Chúa Giêsu như
cành nho dại được tháp vào cây nho thật, thì đời ta chẳng có gì giá trị, người
khiêm tốn ai cũng phải thú nhận rằng: “Hết
thảy chúng tôi đã nên như kẻ mắc uế, công đức của chúng tôi tất cả đều như cái
tã nhơ, chúng tôi hết thảy như lá úa tàn” (Is 64,5: Bản dịch NTT). Đúng như
Đức Giêsu đã nói: “Thầy là cây nho, anh
em là cành. Ai ở lại trong Thầy và Thầy ở lại trong người ấy, thì người ấy sinh
nhiều hoa trái, vì không có Thầy, anh em chẳng làm gì được.” (Ga 15,5).
3/ “Thần Khí Chúa tựa
như chim bồ câu ngự xuống trênNgài”: Ta lưu ý ông Marco không viết “Thánh
Thần là chim câu đậu trên Đức Giêsu”, mà viết “Thánh Thần tựa như chim câu ngự xuống trên Đức Giêsu”, nghĩa là Thánh Thần là Thần Khí của Đức
Kitô xuất hiện gây tiếng động tựa như tiếng chim câu bay đến. Hình ảnh này Kinh
Thánh muốn chúng ta hiểu :
a- Đức Giêsu xuống sông
Giođan thông cho nước tự nhiên ý muốn cứu độ loài người. bởi đó ai được tái
sinh bởi nước và Thần Khí (x Ga 3,5), người ấy trở nên Hiền Thê của Đức Kitô (x
2Cr 11,2). Hiền thê trong sách Diễm ca được ví như chim câu (x Dc 1,15). Đặc
tính của chim câu là trung tín, vì nó là loài động vật duy nhất khi một con
trong cặp trống mái chết, con còn lại không thể ghép với con khác được. Bởi đó
người đã được lãnh nhận Bí tích Thánh Tẩy phải trung tín tôn thờ Thiên Chúa duy
nhất.
b- Chim câu lại làm cho
chúng ta nhớ đến ông Noe, khi nước lụt Hồng Thủy cạn, từ trong tầu ông thả con
chim câu ra, khi nó bay trở về mỏ nó công ngành ô liu non (x St 8,8). Ông Phêrô
xác nhận lụt Hồng Thủy đó là dấu chỉ về Bí tích Thánh Tẩy (x 1Pr 3,20t): Hội
Thánh là Tầu Noe Mới ; Đức Maria như chim câu đưa Con Thiên Chúa là Mầm Sống cho
Hội Thánh hơn con chim câu đưa ngành ô liu non về tầu Noe báo hiệu sự sống đã
bắt đầu khai diễn.
c- Chim câu cũng để diễn
tả một đoàn dân Israel được
Chúa dùng vua Cyros giải phóng khỏi ách nô lệ Babylon trở về quê hương tái thiết Đền Thờ,
như ngôn sứ Isaia nói: “Họ như đàn chim
câu bay về tổ” (Is 60,8). Như thế, nhờ nước Bí tích Thánh Tẩy ta được Chúa
Giêsu giải phóng toàn diện con người trở thành người tự do thuộc về Con Thiên
Chúa, để được ở trong Nhà Cha mãi mãi, không còn là kẻ nô lệ cho satan, không
được ở trong Nhà Cha (x Ga 8,34-36).
d- Chim câu theo ngôn ngữ
Do Thái là “Shakynah”, cũng có nghĩa là áng mây, gợi nhớ dân Do Thái từ khi
thoát nô lệ Ai Cập tiến về miền đất Hứa, họ luôn đi theo cột mây là dấu chỉ
Chúa che chở và hướng dẫn họ (x Xh 13,21-22). Nay ta được chính Chúa Giêsu,
Ngài như ô dù che chở dẫn dắt ta đi vào con đường sự thật dẫn đến sự sống (x Ga
14,6). Ngài như “người mục tử tập họp
đoàn chiên dưới cánh tay, lũ chiên con Ngài ấp ủ vào lòng, bầy chiên mẹ cũng
tận tình chăm sóc” (Is 40,11).
Tất cả những dấu chỉ
về ơn cứu độ trong thời Cựu Ước như trên, thì vào thời Tân Ước chỉ còn giản
lược vào ba chứng: “Nước – Máu – và Thần Khí Sự Thật” (x 1Ga 5,6: Bài đọc).
F Nước chỉ về Bí tích
Thánh Tẩy.
F Máu chỉ về Bí tích
Thánh Thể.
F Thần Khí chỉ về Bí
tích Thêm Sức.
Như vậy nước – máu –
Thần Khí là ba dấu chỉ về Bí tích Khai Tâm, mà thánh Gioan Tông Đồ gọi là ba
chứng nhân, cùng làm chứng về một điều, để ai tin vào Con Thiên Chúa, người ấy
có lời chứng nơi mình. Lời chứng đó là thế này: “Thiên Chúa đã ban cho chúng ta sự sống đời đời và sự sống ấy ở trong
Con của Người, ai có Chúa Con thì có sự sống, ai không có Chúa Con thì phải
chết” (1Ga 5,5-12: Bài đọc). Chân lý này xảy đến khi “các tầng trời mở ra, và có tiếng Chúa Cha phán dạy: “Đây là Con Ta yêu
dấu, hãy vâng nghe Lời Người” (x Mc 9,7: Tung Hô Tin Mừng).
Nhưng trong thế gian đâu
có được mấy người nghe Lời Con Thiên Chúa để tin nhận Ngài là Đấng cứu độ duy
nhất (x Cv 4,12), vì thế Đức Giêsu lên tiếng trách: “Tôi đã đến nhân danh Cha tôi, nhưng các ông không đón nhận. Nếu có ai
khác nhân danh mình mà đến, thì các ông lại đón nhận.Các
ông tôn vinh lẫn nhau và không tìm kiếm vinh quang phát xuất từ Thiên Chúa duy
nhất, thì làm sao các ông có thể tin được ?” (Ga 5,43-44).
Vậy chỉ những ai tin
nhận Chúa Giêsu: nghe Lời và đem thực
hành, người ấy mới cất lời tung hô: “Giêrusalem
hỡi, nào tôn vinh Chúa!” (Tv 147,12a: Đáp ca).
THUỘC LÒNG
Ai có Chúa Giêsu thì sống, kẻ không có Chúa Giêsu thì chết! (1Ga 5,12).
Linh mục GIUSE ĐINH QUANG THỊNH