BÀI GIẢNG
BÀI SUY NIỆM 1 :
MẦU NHIỆM CON THIÊN CHÚA NHẬP
THỂ
Qua
hình thức tổ chức lễ Giáng Sinh dựa vào lịch sử đời sống của Hội Thánh, Phụng Vụ
đã diễn tả về mầu nhiệm nhập thể:
Ø
Con Một Chúa Cha nhập
thể, là một nhân vật lịch sử phi thời gian.
Ø
Ngài là Mặt Trời Công
Chính.
Ø
Ngài sống nghèo cho ta
được giàu có.
Ø
Ngài nâng phẩm giá con
người vượt trên kiếp người.
I. CON MỘT
CHÚA CHA NHẬP THỂ, LÀ MỘT NHÂN VẬT LỊCH SỬ PHI THỜI GIAN
1-
Đức
Giê-su là nhân vật lịch sử
Ngài
không phải là một ý tưởng, hay lý tưởng của nhân loại, như là “Thần Tài” hay
“Thần Lành” trong các tôn giáo nhân gian ; Ngài cũng không phải là nhân vật
thần thoại như “Con Rồng” hay “Tiên Ông” … Nhưng Ngài là con người lịch sử,
sinh vào thời điểm đế quốc La-Mã đang thống trị Israel, dưới triều đại hoàng đế
Au-gút-tô và Qui-rin-tô làm đặc sứ toàn quyền miền Sy-ri-a đã ra lệnh mọi người
phải về quê quán khai tên tuổi. Vào dịp này ông Giuse và bà Maria đã mau mắn
thi hành lệnh trở về Bethlem. Khi hai người đang ở đó, thì Maria tới ngày mãn
nguyệt khai hoa (x Lc 2,1-6:
Tin Mừng) ; và Ngài đã bị giết chết theo lệnh Phi-la-tô làm tổng trấn miền nam
nước Do Thái (x Ga 19,12t).
Vậy ngay từ lúc chào đời, Đức Giêsu đã dạy chúng ta phải
biết tùng phục quyền bính đời (x Lc 2,2: Tin Mừng), để mỗi người chúng ta phải nên thánh ngay trong môi trường
và hoàn cảnh của mình đang sống!
2-
Con
Thiên Chúa được sinh ra trong thời gian nhưng lại phi thời gian
Niên
lịch của nhân loại trước thế kỷ thứ 15 chưa thống nhất :
*
Người Ai Cập, Át-sy-ri ; Ba-by-lon dùng niên lịch theo các đời vua.
*
Người Hy Lạp lấy ngày tế thần Zeus, đầu tiên vào năm 776 trước Công nguyên.
*
Người Roma tính từ ngày hai ông Romolus và Remus xây thành Roma vào năm
750 trước Công nguyên.
*
Người Do Thái tính từ ngày ông Ab-ra-ham được Thiên Chúa kêu gọi khoảng 2.000
năm trước Công nguyên.
Nói
chung trước thế kỷ thứ 15, lịch thế giới không thống nhất, nên tạo khó khăn
trong vấn đề giao dịch Mãi đến thế kỷ thứ 6 (năm 525), thày dòng Denys le Petit
cho biết Chúa Giáng Sinh vào năm - 754 theo lịch Ro-ma. Đến đời Đức Giáo hoàng
Grégorio XIII (1505-1583) mới quyết định lấy ngày Chúa Giáng Sinh làm mốc thời
gian cho cả thế giới. Nhưng tiếc là thày Denys le Petit đã tính sai ! Vì vào
năm 1912, người ta tìm thấy tấm bia ở An-ti-ô-ki-a xứ Pi-si-đi-a còn ghi lại
rằng: lệnh khai hộ khẩu do ông Qui-rin-tô khởi xướng và ông Sen-ti-ô hoàn tất
vào năm 7 và 6 trước Công nguyên. Như thế, lịch hiện hành đã tính trễ khoảng 6
– 7 năm.
Dầu
sao thì không có ai biết chính xác Đức Giê-su sinh ra vào ngày tháng nào ! Điều
này Chúa muốn dạy chúng ta:
a- Đức Giêsu con người lịch sử được sinh ra, được sinh
ra mà không phải được tạo thành, không lệ thuộc vào thời gian.
b- Đức Giêsu là Thiên Chúa mà Thiên Chúa là Đấng
hằng hữu, thì không có khởi sinh không có tận cùng.
II. CHÚA GIÊSU
LÀ MẶT TRỜI CÔNG CHÍNH
Thực
ra vào thế kỷ thứ 4, lễ Giáng Sinh mới bắt đầu hình thành, tức là vào năm 350,
Đức Giáo hoàng Julius I chính thức chọn ngày 25/12 là ngày mừng lễ Giáng Sinh.
Lý do hoàn cảnh lúc ấy dân ngoại ồ ạt theo đạo Chúa, nhưng trước đó họ có thói
quen cứ đến ngày 25/12 là đi dự lễ hội mừng ngày sinh của thần Mặt Trời. Do đó
Hội Thánh Công giáo muốn “rửa tội” cho ngày đó bằng cách nói với dân ngoại đã
trở lại đạo rằng: Muốn thờ thần Mặt Trời, thì chính Đức Giê-su là MẶT TRỜI CÔNG
CHÍNH đã đến viếng thăm nhân loại. (x Lc 1,78)
III. CON THIÊN
CHÚA TRỞ NÊN NGHÈO ĐỂ TA ĐƯỢC GIÀU CÓ
Phúc
Âm không ghi Đức Giêsu sinh ra trong hang đá, nhưng theo thánh Gius-ti-nô (thế
kỷ thứ 2) thì nói Đức Ma-ri-a sinh Đức Giê-su trong một hang đá. Vào thế kỷ thứ
4, hoàng đế Công-tăng-ti-nô cho xây một vương cung thánh đường tại một hang ở
Bethlem, mà theo truyền thống người ta tin Chúa Giê-su sinh ra tại đó.
Còn
việc làm hang đá ngày nay, được bắt đầu vào thời thánh Phan-xi-cô thành
Át-si-si: Lúc ấy người ta đã tục hoá lễ Giáng Sinh, đáng lẽ vào dịp lễ này
người ta phải gia tăng cầu nguyện, nghe Lời Chúa và chia sẻ, thì họ lại tổ chức
tiệc tùng, ăn uống xa xỉ và đú đỡn với nhau ! Đầu tháng 12 năm 1223, thánh
Phan-xi-cô báo trước cho mọi người là lễ Giáng Sinh năm nay không cử hành tại
nhà thờ mà là ở một nơi khác (không cho biết trước). Mỗi tín hữu đêm ấy cầm
đuốc đi theo thánh nhân vào một khu rừng vắng. Rồi thánh nhân leo lên một triền
núi phẳng và cùng với mọi người dâng Thánh lễ tại đây, ngài giảng một bài rất
hùng hồn về cảnh nghèo nàn của Con Thiên Chúa vào đời, có ý dạy mọi người tránh
sống xa xỉ, để có điều kiện chia sẻ vào những công việc đạo đức, hữu ích cho
mọi người. Khi thánh Phan-xi-cô đang giảng say sưa, thì thình lình Chúa Hài
Đồng hiện ra ngay trên bàn thờ, nằm giơ hai tay, hai chân như muốn đòi thánh
nhân bế. Từ điển tích này, người ta đặt tượng Chúa Hài Đồng nơi hang đá không
phải là một cậu bé được quấn tã nằm ngủ ngon trong máng cỏ, mà là một Hài Nhi nằm “giơ bốn vó !”
Vậy
“làm sao chúng ta phải trở nên giàu có
như Đức Giê-su, mà vì chúng ta, Ngài đã trở nên nghèo khó, để chúng ta được
giàu có nhờ sự nghèo khó của Ngài !” (2Cr 8,9) Ta phải trở nên giàu có như
Đức Giê-su để có thêm điều kiện làm cho đồng loại được giàu có về Đức Tin và
của cải vật chất, còn ta trở nên nghèo khó giống Đức Giêsu, đến nỗi Ngài không
có nơi ngả đầu! (x Lc 9,58), vì chết trần trụi trên thập giá!
IV. CON THIÊN CHÚA ĐẾN NÂNG PHẨM GIÁ CON NGƯỜI VƯỢT TRÊN MỌI LOÀI THỤ TẠO
*
Cũng vào hoàn cảnh ở thế kỷ thứ 4 (năm 440), nhóm Ma-ni-sê chủ trương khinh chê
thân xác con người, vì thân xác là nguồn gốc của tội lỗi !
*
Rồi đến năm 448, nhóm “Độc Tính” dạy rằng: Chúa Giê-su chỉ có một bản tính
Thiên Chúa, thân xác chỉ là “ốc mượn hồn”, con người không làm được gì tốt, phủ
nhận sự cộng tác của con người trong chương trình Chúa cứu độ, mà Thiên Chúa
hoàn toàn làm hết cho kẻ tin Ngài !
Để chống lại hai lạc
thuyết trên, lễ Giáng Sinh Hội Thánh dạy ta phải xác tín rằng:
1- Mỗi người được Chúa ở cùng, thân xác họ là Đền
Thờ đích thực của Thiên Chúa.(x 1Cr 3,16)
2- Khi tạo dựng con người, Thiên Chúa không hỏi ý
kiến ai, vì chưa có ai để hỏi. Nhưng khi cứu độ con người, thì Thiên Chúa tôn
trọng họ, nên Ngài hỏi ý con người ! (thánh Au-gút-ti-nô) [x Mc 2,1-12]
3- Khi tạo dựng A-đam I, A-đam cuối cùng (Đức Giê-su),
Thiên Chúa đã khắc ghi hình ảnh mình trong đó, như Lời tiền Tin Mừng Chúa đã
hứa: “Miêu duệ người nữ đạp nát đầu rắn”
(St 3,15). Do vậy, A-đam cuối cùng đã lãnh nhận vai trò và tên A-đam I: Vì
A-đam I làm mất những gì tốt đẹp đã được Thiên Chúa tạo dựng theo hình ảnh Ngài
(x St 1,26). A-đam trước đã khởi đầu, nhưng đi vào sự chết ; A-đam cuối cùng sống
vinh phúc muôn đời. Do đó, người sau (Giê-su A-đam cuối cùng) mới đích thực là
người đầu, như chính Ngài đã nói về mình: “Ta
là đầu và là cuối’’ (Kh 1,17): Từ khởi sự cho đến hoàn tất, đều nhờ bởi
Chúa Giê-su.
4- “Adam cũ
được dựng nên bởi đất trinh (đất chưa ai canh tác), còn Adam cuối cùng thì được
sinh ra bởi Mẹ Đồng Trinh” (Thánh I-rê-nê). Thánh Gioan nói: “Những ai đón nhận được Ngài, thì Ngài ban
cho họ quyền làm con Thiên Chúa, ấy là cho những kẻ tin vào danh Ngài” (Ga
1,12). Vì vậy mà thánh Gioan Kim Khẩu
nói: “Thiên Chúa làm người, cho
con người được làm Thiên Chúa”. Và Chúa “không ngớt vui chơi, vui chơi trên mặt đất, đùa giỡn với con cái loài
người” (Cn 8,30-31).
Nhưng
ai muốn được những ơn trọng đại trên, buộc họ phải sống trong Hội Thánh Chúa
Ki-tô. Vì Chúa chỉ muốn cứu loài người trong một đoàn chiên và một Chủ chiên (x
Ga 10,1-18). Chính vì thế mà giáo huấn Công Đồng Vat. II trong Hiến Chế Ánh
Sáng Muôn Dân số 32 dạy: “Ngôi Lời nhập thể
và tình liên đới nhân loại, Thiên Chúa không muốn thánh hóa và cứu rỗi loài
người cách riêng rẽ thiếu liên kết, nhưng Ngài muốn quy tụ họ thành một dân tộc,
để họ nhận biết chính Ngài trong chân lý, và phụng sự Ngài trong thánh thiện”
.
Câu chuyện Đường Tăng
(trích trong “Phẩm Giá Của Con Người” của Nguyễn Thái Hợp:
“Đường
Tăng Huyền Trang là một nhân vật lịch sử. Một tăng sĩ dũng cảm, thông minh,
tinh tế và là một học giả uyên thâm kinh điển Phật giáo. Ông là một học giả
thiên tài và nghiêm túc đã dịch rất nhiều kinh sách Phật giáo ra chữ Hán. Ông
đã ghi chép cẩn thận những gì mắt thấy tai nghe trên đường đi thành tập “Tây Du
Ký”. Đây là một tài liệu giá trị về xã
hội, địa dư, tôn giáo và lịch sử của Ấn-Độ thời ấy. Nhưng chẳng mấy ai đọc “Tây
Du Ký” của Huyền Trang.
Ngô
Thừa Ân không sử dụng tài liệu lịch sử của Huyền Trang, mà lại hư cấu một “Tây
Du Ký” khác. Dưới ngòi bút của Ngô Thừa Ân, Huyền Trang học giả biến thành một
Đường Tăng khù khờ, cả tin, hơi u mê và nhiều khi từ bi không đúng chỗ. Tuy nhiên,
thầy trò Huyền Trang Tam Tạng của Ngô Thừa Ân lại được nhiều người Á Đông biết
đến và say mê, vượt rất xa tác phẩm và nhân vật Huyền Trang chính thức.
Vào
đầu thập niên 90, Trương Quốc Dũng đã hư cấu một Huyền Trang khác trong truyện
thật ngắn mang tựa đề “Đường Tăng”. Trong lời bạt của cuốn sách “40 truyện rất
ngắn”, nhà phê bình Lê Ngọc Trà nhận định sắc nét: “Truyện Đường Tăng đầy những
câu văn ngắn có hồn. Chữ ít nhưng dường như chữ nào cũng sống, cũng có một âm
điệu tình cảm, một không gian…”. Xin được phép trích nguyên văn truyện thật
ngắn này, một trong hai truyện được giải nhất trong cuộc thi truyện rất ngắn
1993-1994 (dưới 1.000 chữ) của bán nguyệt san Thế Giới Mới :
“Đêm
cuối cuộc trường chinh đầy gian khổ, ngày mai vào yết kiến Như Lai để lên kiếp
Phật, đường Tăng trằn trọc không sao ngủ được. Suốt cuộc đời tâm nguyện tới cõi
này, giờ đây khi sắp trút bỏ kiếp người, ông bỗng thấy lòng day dứt.
“Chiều
nay, thân thể Đường Tăng đã rã rời, đầu óc đầy mộng mị, tay biếng lần tràng
hạt. Tâm linh như muốn níu chân dừng lại. Máu ông nhức nhối thấm lần qua tim,
cứa vào qúa khứ đau xé. Ông nhớ tới những người sinh thành ra mình. Tình cha,
huyết mẹ tạo nên mà bao nhiêu năm nay ông không một lần thắp hương, không một
lần nhắc nhở.
“Chặng
đường dài tới đất Phật khiến trái tim ông dần chai sạn. ông đã quá nhiều lần
phải lạy lục, cầu khẩn các thần lớn bé, đã qua nhiều lần dẫm đạp lên xác máu
yêu ma xa gần, chỉ với một mục đích: mau thành chánh qủa. ông thương người.
Nhưng đêm nay, trước ranh giới cuối cùng của cõi Người và Phật, ông chợt hiểu
ra cội rễ của tình thương ấy. Mỗi lần cứu giúp con người, ông chỉ thầm tính
toán như xây thêm cho mình một bậc thang tới Phật đài.
“Nhiều
lần Đường Tăng đã tự hỏi tại sao nước mắt mình ngày càng lạnh giá. Giờ đây ông
thầm biết, trên con đường thỉnh kinh về cứu rỗi người đời, ông đã dần dần xa lạ
với con người.
“Ông
trở mình, thở dài: không là người, ta sẽ là ai? Yêu quái cản đường, biết bao kẻ
chính từ trên đây xuống, pháp thuật vô biên, ác nghiệt vô cùng. Ta nhập vào chốn
ấy biết rồi thành Phật hay thành ma ?
“Đường
Tăng chợt nhói trong tim. Ông khẽ rên lên, hai tay ôm ngực. Mở mắt thấy các đồ
đệ đang đứng bên giường nhìn ông âu lo. Cả ba hình như đều không ngủ.
“Đường
Tăng thở hắt: “Không sao đâu, ta chỉ chợt
nhớ tới ngày xưa”. Nói rồi lại nhắm mắt.
Nghe
tiếng Ngộ Không: “Xin thầy đừng tự dối
lòng. Thầy đang nhớ cả kiếp người – Đường Tăng rùng mình khi giọng Ngộ Không
quá u uất – Con từ đá sinh ra. Coi thường cả thần thánh, yêu ma, chỉ mong được
thành người. Thầy đã là người lại tự bỏ mình đi tìm hồn phách khác. Đêm nay sao
khỏi xót xa”.
“Bát
Giới cười khẽ: “Làm người có gì vui.
Chúng ta đã dốc lòng theo đạo, ngày mai được lên chốn thần tiên, sung sướng
biết bao nhiêu. Thầy đừng luyến tiếc.”
“Sa
Tăng an ủi: “Thầy trò mình sắp hóa Phật,
mang đạo xuống khai sáng cho loài người. Công qủa vĩ đại lắm !”
“Đường
Tăng lắc đầu, nằm im hồi lâu, hai tay vẫn đặt lên tim, mắt vẫn nhắm, nước mắt
trào ra ấm nóng lại. Rồi như trăn trối: “Ta
ước gì đêm nay đừng sáng. Ta đau đớn cho mười mấy năm viễn du. Ngộ Không ơi !
Một đời con mong được thành người thì bị ép phải theo ta để thành Phật. Bát
Giới tự dối mình, giác ngộ thật ra
chỉ là đi tìm một chốn hoan lạc mới. Sa Tăng rời cõi u mê này sang cõi hoang
tưởng khác mà lại hy vọng khai sáng. Còn
ta ? Không còn là người, không phải là người thì làm sao đồng cảm mà đòi
khai sáng, cứu vớt con người.”
“Ngộ
Không sụp xuống nắm tay thầy, nghẹn ngào: “Thầy
đã nhận ra chân lý. Nhưng chậm quá rồi.”
Truyện
Đường Tăng cho ta phải suy nghĩ: Đường Tăng mong thành Phật, khi sắp thành Phật
lại buồn vì không còn là người ! Mà không là người làm sao cứu được người ? Như
vậy Đường Tăng thua xa Chúa Giê-su, Ngài vừa là Thiên Chúa vừa là người. “Ngài đã trải qua thử thách và đau khổ, nên
Ngài có thể cứu giúp những ai bị thử thách !” (Dt 2,18) Và không ai có thể
lên cõi Phúc (lên Trời), ngoại trừ “Đấng
từ Trời mà xuống, để ai tin vào Ngài thì được sống hạnh phúc đời đời !” (Ga
3,13.15) Như vậy, muốn cứu ai ta phải có hai điều kiện :
* Đồng cảm với người ta muốn cứu,
để nếm trải được những đau khổ của họ. Đó là lý do Đấng Cứu Thế muốn làm người
như chúng ta.
Nếu
Thiên Chúa ngồi trên trời sai thiên thần đến Việt Nam, xem hoàn cảnh dân chúng sống
ra sao, khi thiên thần trở về chắc chắn thưa với Chúa: “Lạy Chúa, “đầy tớ nhân
dân” rất giàu có, trái lại nhân dân làm chủ lại quá nghèo khổ, bo bo không có
đủ mà ăn. Chúa sẽ ngạc nhiên hỏi: “Tại sao thế, Ta không hiểu, đầy tớ lại giàu
hơn chủ nghĩa là sao?” Thiên thần thưa: “Đầy tớ nhân dân giàu lắm, họ rửa tiền
bằng cách đi xe hơi và uống bia ôm. Còn nhân dân làm chủ thì không ai làm chủ
một tấc đất, họ chỉ có quyền sử dụng, nên họ phải đi xe ôm và uống bia hơi!”
Và
nghe thế, hẳn Chúa phải la lên: “Ta phải xuống xem sao, chứ ngươi báo cáo thế
thì “Tây” nó cũng chẳng hiểu nổi!”
Vậy
muốn cứu ai đạt hiệu quả cao, không những ta phải lâm khổ giống mà còn phải khốn
khổ hơn người ấy.
* Cộng tác với Đức Giê-su ngay “HÔM NAY’’
Nhờ
ngòi bút của ông Luca, cho ta lưu ý hai lần ông viết “Hôm nay”,
đặc biệt ở đầu và cuối cuộc đời Đức Giê-su :
-
Ngày Con Đấng Tối Cao giáng trần, Thiên thần nói:
“Hôm nay, Đấng Cứu Độ đã sinh ra cho chúng ta,
Người là Đấng Ki-tô, là Đức Chúa” (Lc 2,11: Đáp ca).
-
Ngày Con Đấng Tối Cao lìa bỏ trần thế về Trời,
Ngài nói với tên trộm biết sám hối tội mình và xin theo Ngài: “Hôm nay,
ngươi ở trên Thiên Đàng với Ta” (Lc 23.43). Đúng với Lời thiên
thần nói với các chú mục đồng: “Này tôi
báo cho anh em một Tin Mừng trọng đại: Hôm nay, một Đấng Cứu Độ đã sinh ra cho
anh em trong thành vua Đavid, Người là Đấng Ki-tô, là Đức Chúa” (Lc 2,11: Tung
Hô Tin Mừng).
Kinh
Thánh viết như thế, muốn nhấn mạnh rằng: Chúa Giê-su rất muốn đến với chúng ta
từng ngày hôm
nay trong suốt đời ta. Ngài không hẹn ta vào ngày khác đến gặp
Ngài. Do đó, nếu mỗi người chúng ta hôm nay rộng mở cửa tâm hồn đón
Chúa Giê-su Phục Sinh, khi ta dự Thánh lễ, thì cho dù ngày hôm nay ta
còn vương vấn tội lỗi mà biết sám hối, nếu Chúa lại gọi ta hôm nay ra
khỏi thế gian này, chắc chắn Chúa cũng đưa ta vào Thiên Đàng ngay hôm nay,
bởi vì ta không đến nỗi tồi tệ như tên trộm lành suốt đời chỉ chôm chỉa của
người khác. Như thế ta không phải xuống luyện tội một thời gian để thanh tẩy
mới được vào Thiên Đàng, giống như nhiều người phải thanh tẩy nơi luyện tội. Vì
Chúa Giê-su cũng đã hứa: “Ai nghe Lời Ta và
tin vào Đấng đã sai Ta thì có sự sống đời đời và khỏi phải đến tòa phán xét,
nhưng đã ngang qua sự chết mà vào cõi sống” (Ga 5,24). Chính vì vậy, mà
thánh Phao-lô nói: “Bây giờ án phạt không
có nữa cho những ai ở trong Đức Ki-tô Giê-su” (Rm 8,1), nên “nếu Đức Ki-tô ở trong anh em, thì tuy thân
xác anh em có phải chết vì tội đã phạm, Thần Khí cũng làm cho anh em được sống,
vì anh em đã được trở nên công chính” (Rm 8,10).
Nhất
là ta dự Lễ trọn vẹn: nghe Lời và rước lễ là cách chắn chắn được Chúa ở cùng,
Ngài giúp ta thắng satan, thắng tội lỗi, thắng thần chết, hơn xưa Chúa chỉ ở
cùng ông Ghê-đê-ôn qua dấu chỉ “tấm lông
chiên ông phơi ngoài sân đẫm ướt sương” (x Qa/Tl 6-7), nhờ thế mà ông chiến
thắng quân Ma-đi-an (x Is 9,1-6: Bài đọc I).
Vậy
ngày hôm nay ta dự Lễ là được Chúa ở cùng, chắc chắn Ngài cho ta mạnh sức hơn
ông Ghê-đê-on, để “Ngài giúp ta từ bỏ lối
sống vô luân, hầu ta xứng đáng là dân riêng của Chúa, một dân hăng say làm việc
thiện” (Tt 2,11-14: Bài đọc II).
THUỘC LÒNG.
Thiên Chúa yêu thế gian
đến nỗi đã ban Con Một, để ai tin vào Con của Người thì khỏi phải chết, nhưng
được sống muôn đời. (Ga 3,16)
BÀI SUY NIỆM 2 :
CUỘC ĐỜI LÀ HIẾN TẾ CỨU ĐỘ
Thiên
Chúa Ngôi Hai, Ngài là Đấng Hằng Hữu và Toàn Năng, nhưng Ngài chỉ trở thành Tư
Tế khi được sinh ra làm người và trở thành của lễ dâng Chúa Cha sinh ơn cứu độ
cho loài người, đúng với ý nghĩa danh Giê-su (Thiên Chúa Cứu Độ) đã được sứ
thần Gabriel ra lệnh cho Đức Maria và ông Giu-se đặt cho Ngài (x Lc 1,31 ; Mt
1,18-25).
Ta
biết Đức Giê-su hoàn tất Hy Lễ mới của Ngài :
- Khởi đi từ lúc nhập thể,
đỉnh cao nơi thập giá.
- Để mạc khải cho “kẻ bé mọn” sự khôn ngoan của
Thiên Chúa.
- Để tạo nên một dân riêng thoát ách Luật, chuyên
lo việc lành.
- Để ta theo gương Đức Ma-ri-a cộng tác với Đức
Giê-su hoàn tất công trình sáng tạo mà Chúa Cha đã khởi sự.
- Con Chúa đến qua Phụng Vụ Hội Thánh cử hành để
hoàn tất việc tạo dựng con người.
1/ ĐỨC GIÊ-SU
VÂNG LỜI SỐNG NGHÈO TỪ LÚC NHẬP THỂ, ĐỈNH CAO LÀ THẬP GIÁ
ò Ngày
Đức Giê-su vào trần gian, cha mẹ Ngài phải vâng lời hoàng đế Ro-ma về Bê-lem,
thành của vua Đa-vít mà đăng ký hộ khẩu, trong cảnh nghèo khổ: Không kiếm được
chỗ trú thân trong thành, nên cha mẹ Hài Nhi phải lấy tã vấn và đặt nằm trong
máng cỏ ! (x Lc 2,7). Phải chăng người ta coi Ngài như thân sâu bọ nằm trong cỏ,
dựa vào lời ngôn sứ I-sai-a đã nói: “Dáng
vẻ của Ngài không còn thuộc hạng người ta” (Is 52,14) ; “Không duyên dáng, không oai vệ bắt chúng tôi phải để ý” (Is 53,2).
ò Nhưng
còn tệ hơn, ngày Đức Giê-su lìa đời, Ngài lại phải vâng lời quyền bính Ro-ma, tại
thành của vua Đa-vít, để lãnh án tử, chết nhục trên thập gía ! Rồi được ông
Giu-se quê tại Arimathia và một môn đệ bí mật xin ông Phi-la-tô đưa xác Ngài
đem đi liệm táng trong mồ ! (x Ga 19,38t) Đúng như lời ngôn sứ I-sai-a đã nói: “Ngài bị khinh khi, và là đồ phế bỏ của người
đời!” (Is 53,3)
2/ ĐỂ MẠC KHẢI
CHO “KẺ BÉ MỌN’’ ĐƯỜNG LỐI KHÔN NGOAN CỦA THIÊN CHÚA
ò
Ngày Ngôi Hai giáng trần, Ngài sai thiên thần
đến mạc khải cho các chú mục đồng, là những “kẻ bé mọn” về dấu chỉ: “Một trẻ
vấn tã nằm trong máng cỏ”,để
nhận ra Đấng Cứu Thế. Mà thực, chỉ có lũ trẻ ranh con này được tin mới tìm đến
thờ lạy Hài Nhi Giê-su, còn hạng người tự mãn là khôn ngoan thông thái chỉ mở
Sách Thánh tra tầm nơi sinh của Hài Nhi, Vua Do-Thái, để chỉ điểm cho bạo chúa
Hê-rô-đê ra lệnh chém giết, chứ nào họ
có đến thờ lạy ?! (x Mt 2)
ò
Bởi vậy, cái chết của Đức Giê-su trên thập gía
là cớ vấp phạm cho người Do-Thái, là sự điên rồ đối với dân ngoại ; chỉ có kẻ
bé mọn như ông Phao-lô mới được Đức Giê-su mạc khải cho biết đó là đường lối khôn
ngoan của Thiên Chúa. (x 1Cr 1,17)
3/ ĐỂ TẠO NÊN
MỘT DÂN RIÊNG THOÁT ÁCH LỀ LUẬT, CHUYÊN LO VIỆC LÀNH
Ngôn
sứ I-sai-a trong Bài đọc I đã cho ta biết trước gía trị ơn cứu độ do Đấng Cứu
Thế thực hiện: “Ngài đập tan cái ách đè
trên vai dân…” (Is 9,3t). Đây chính là cái ách, cái gánh nặng, cái roi của
Lề Luật đặt trên nhân loại, vì “Luật chỉ
làm cho ta nhận biết tội’’ (Rm 7,7), và nó “giam ta trong tội’’ (Gl 3,22). Chỉ có Đức Giê-su giải phóng cho “kẻ
bé mọn” thoát án phạt của Lề Luật (x Gl 3,24 và Mt 11,25-30). Ai được Chúa ở
cùng, người ấy được Ngài ủng hộ và bênh đỡ thắng sự ác, còn hơn xưa Thiên Chúa
ủng hộ ông Ghê-đê-ôn thắng quân Ma-đi-an để bảo vệ dân Ngài (x Tp 6). Bởi vì
Ngài vừa là Đấng cao cả nhất lại trở nên thấp hèn nhất ! Ngài vừa khác ta, vì Ngài
là Thiên Chúa, Ngài lại giống ta, vì Ngài là người như mọi người, ngoại trừ tội
lỗi!
- Ông Emerson nói: “Muốn quan sát một khu vực, ta phải leo lên nơi
cao nhất, và còn phải xuống nơi thấp nhất.” Ví dụ: Một người muốn tham quan
một địa danh để biết tường tận nơi đó, thì người ấy phải ngồi trên máy bay nhìn
xuống, đồng thời họ còn phải lội qua từng dòng suối, xuống tận thung lũng sâu
thẳm!
- Còn ông P.Tillich nói: “Muốn hiểu ai, ta phải vừa giống họ, lại vừa
khác họ.”
Vậy
chỉ có Đức Giê-su hiểu hết những nhu cầu, những khát vọng của ta, vì Ngài cao
cả không ai bằng, cũng không ai hạ mình xuống thấp nhất như Ngài: Ngài vốn dĩ
là Thiên Chúa toàn năng, lại trở nên như người nô lệ để phục vụ, thậm chí người
ta liệt Ngài vào hạng tội nhân phải loại trừ!
Để
minh chứng Ngài giống ta để hiểu ta nhất, làm thỏa mãn khát vọng nên thánh của
ta, thánh Phao-lô nói: “Ân sủng của Thiên
Chúa đã được biểu lộ, đem ơn cứu độ đến cho mọi người. … Sở dĩ như vậy, là vì
chúng ta trông chờ ngày hồng phúc vẫn hằng mong đợi, ngày Đức Ki-tô Giê-su là
Thiên Chúa vĩ đại và là Đấng cứu độ chúng ta, xuất hiện vinh quang.Vì
chúng ta, Người đã tự hiến để cứu chuộc chúng ta cho thoát khỏi mọi điều bất
chính, và để thanh luyện chúng ta, khiến chúng ta thành Dân riêng của Người,
một dân hăng say làm việc thiện.” (Tt 2,11-14: Bài đọc II).
4- TA THEO
GƯƠNG ĐỨC MA-RI-A CỘNG TÁC VỚI ĐỨC GIÊ-SU ĐỂ HOÀN TẤT CÔNG TRÌNHSÁNG TẠO CỦA CHÚA CHA
* Theo gương Đức
Ma-ri-a: Khi các chú mục đồng vào thành Bê-lem, họ thuật lại tất
cả các lời thiên thần loan báo, làm mọi người kinh ngạc – một thái độ nghi ngờ
chưa tin – chỉ riêng Đức Ma-ri-a thì giữ kỹ các điều ấy và hằng suy đi nghĩ lại
trong lòng (x Lc 2,15-20). Thái độ của Đức Ma-ri-a trước ý định của Thiên Chúa
đã trở thành mẫu mực cho mọi thành phần trong Hội Thánh, để nhờ nhẫm đi nhắc
lại Lời Chúa suốt đêm ngày, họ làm gì cũng thành công ! (x Tv 1,2-3)
* Cộng tác với Đức
Giê-su ngay “Hôm Nay’’: Trong Tin Mừng của thánh sử Lu-ca, ông đã
dùng 8 lần thuật ngữ “HÔM NAY’’ để nói về ơn cứu độ Chúa ban:
1. Hôm nay
Đấng Cứu Thế sinh ra (x Lc 2,11).
2. Hôm nay Cha
sinh ra Con (x Lc 3,22).
3. Hôm nay ứng
nghiệm điều tai các ngươi vừa nghe (x Lc 4,21).
4. Hôm nay
chúng ta được thấy điều kỳ lạ: Con Người có quyền tha tội (x Lc 5,26).
5. Hôm nay và
ngày mai tôi trừ quỷ và chữa lành bệnh tật, ngày thứ ba tôi hoàn tất (x Lc
13,32).
6. Hôm nay tôi
phải lưu lại nhà ông Gia-kêu (x Lc
19,5).
7. Hôm nay nhà
này được ơn cứu độ (x Lc 19,9).
8. Hôm nay anh
ở trên Thiên Đàng với tôi (x Lc 23,43).
Như
thế, thời Cựu Ước, Chúa đã tạo dựng vũ trụ trong 6 ngày, ngày thứ 7 Ngài nghỉ
ngơi (x St 1). Đó là dấu chỉ trong thời Tân Ước, vào ngày Thứ Bảy Tuần Thánh,
Đức Giê-su được nghỉ ngơi (an táng trong mộ), và Ngày Thứ Tám, Ngài sống lại,
thì 8 lần “Hôm Nay” trong đời Đức Giê-su, Ngài lấy cả sự ác làm hoàn tất việc
tạo dựng mà Chúa Cha đã khởi sự. Cụ thể Ngài đưa anh trộm lành dâng lên Chúa
Cha để tôn vinh Người. Đúng là như lời thiên thần báo cho các mục đồng: “Này tôi báo cho anh em một Tin Mừng trọng
đại: Hôm nay, một Đấng Cứu Độ đã sinh ra cho anh em trong thành vua Đavid,
Người là Đấng Ki-tô, là Đức Chúa” (Lc 2,11: Tung Hô Tin Mừng).
(Ta lưu ý: Trong
Tin Mừng của Lu-ca, còn nói đến hai lần “Hôm nay” nữa, nhưng không được kể là
HÔM NAY CHÚA BAN ƠN, vì tác gỉa nói đến hình phạt đối với người từ chối Đức
Giê-su: Lc
19,42: Ngài trách người Do-Thái hôm nay không biết đón nhận
phúc bình an ! Lc 22,34: Ngài báo trước ông Phê-rô sẽ chối Thầy: “Hôm nay gà
sẽ không gáy cho đến lúc ngươi chối ba lần là không biết Ta” –).
5- CON CHÚA ĐẾN QUA PHỤNG VỤ HỘI THÁNH CỬ HÀNH ĐỂ HOÀN
TẤT VIỆC TẠO DỰNG LOÀINGƯỜI
Nhờ
tình thương và quyền năng lạ lùng Con Thiên Chúa đã thực hiện như đã đề cập ở
trên, làm cho các chú mục đồng cùng với các thiên thần chung lời tôn vinh ngợi
khen Thiên Chúa: “Vinh danh Thiên Chúa
trên trời, bình an dưới thế cho loài người Chúa thương” (x Lc 2,14.20).
Lời
tôn vinh trên, đêm hôm nay mọi Ki-tô hữu đều cất lời cùng chung tiếng hát với
các thiên thần, để nối dài và mở rộng niềm vui ơn cứu độ đã đựơc công bố cách
đây trên 2.000 năm, và còn đang tiếp tục thực hiện cho tới ngày Chúa lại đến,
để tập họp thêm những người thiện tâm theo Ngài đi vào vinh quang bất diệt !
Vì
khi tạo dựng A-đam thứ I, A-đam cuối cùng (Đức Giê-su) đã khắc ghi hình ảnh
mình trong đó. Vì vậy A-đam cuối cùng lãnh nhận vai trò và tên của A-đam thứ I
đã bỏ mất những gì tốt đẹp Thiên Chúa ban, nhất là được tạo dựng theo hình ảnh
của Ngài (x St 1,26). A-đam đầu, A-đam cuối: Người trước đã có khởi đầu, Người
sau sẽ tồn tại mãi mãi, vì Người sau mới thực là Người đầu, như chính Ngài đã
nói về mình “Ta là Đầu và là cùng đích”
(x Thánh Phê-rô Kim Khẩu – Bài Giảng 117).
Đức
Ki-tô Giê-su xuất hiện không phải một lần, mà Ngài cứ muốn đến lần nữa, lần sau
huy hoàng hơn lần trước. Thực vậy, lần I Ngài đến chịu trăm nghìn đau khổ, còn
lần sau Ngài đến biểu lộ vương quyền của Thiên Chúa, vì nơi bản tính Thiên Chúa,
hai lần Ngài được sinh ra: Lần I sinh ra bởi Thiên Chúa từ trước muôn đời, lần
II được sinh ra do quyền năng Chúa Thánh Thần, nơi cung lòng Đức Trinh Nữ Maria.
Ngài đến âm thầm như sương xuống tấm lông chiên của ông Ghê-đê-on, và lần II
Hội Thánh sinh Ngài qua Bí tích Thánh Thể, như sương từ trời xuống lần II trên
mảnh đất ông Ghê-đê-on phơi tấm lông
chiên, mà tấm lông chiên không đẫm ướt sương! Đó là dấu chỉ Chúa thúc bách ông
Ghê-đê-on xuất quân chiến thắng kẻ địch Ma-đi-an giải phóng cho dân tộc ! (x
Tp/Qa 6,36t).
▪
Lần I, Đức Ki-tô Giê-su đến được Mẹ bọc tã đặt
trong máng cỏ (x Lc 2,7) ; lần II Ngài đến trong bộ áo cẩm bào muôn ánh hào
quang.
▪
Lần I, Đức Giê-su đến vác thập giá mà chẳng hề
nhuốc hổ, lần II vào ngày Quang Lâm, Ngài đến trong vinh quang, có các đạo binh
thiên thần hộ tống.
▪
Lần I, Ngài đến với ta qua Bí tích Thánh Tẩy, để
ta được tháp vào Ngài như cành tháp vào cây, cho ta trở thành chi thể trong
Thân Mình Mầu Nhiệm Chúa Giê-su Phục Sinh, còn lần II, Ngài đến với ta qua Bí
tích Thánh Thể, để ta được sống bằng sự sống của Ba Ngôi Thiên Chúa (x Ga
6,57), bảo đảm cho sự sống lại, một sự sống dồi dào và vĩnh cửu (x Ga 6,54 ;
10,10).
Như
thế người ta được sinh ra lần I theo ý muốn xác thịt của cha mẹ, thì loài người
được nhân lên và chia rộng ra ; còn lần II ta được sinh ra qua Bí tích Khai Tâm
bởi ý muốn của Thiên Chúa, trong Chúa Giê-su (x Cv 2,38), thì ta lại được thu
họp trong Thân Thể Mầu Nhiệm của Chúa Ki-tô là Hội Thánh, để ta vừa được sống
bởi Chúa Giê-su, vừa được sống dồi dào bởi các chi thể trong Thân Mình Đức
Ki-tô thông chia cho, đó là “áo cưới của Hiền Thê Tân Lang Giêsu”, thánh Gioan
nói đó chính là “áo trúc bâu, là công đức
của các thánh, để được mời vào dự tiệc cưới Con Chiên trong ngày cánh chung” (x Kh 19,7-8).
Vậy
chúng ta hãy trông chờ Đức Giê-su đến lần II quan trọng hơn lần I và bổ túc cho
lần I, hầu lần II, Ngài cho chúng ta cùng cất tiếng tung hô: “Hôm nay, Đấng Cứu Độ đã sinh ra cho chúng
ta, Người là Đấng Ki-tô, là Đức Chúa” (Lc 2,11: Đáp ca). Ta “hát lên mừng Chúa một bài ca mới,hát lên
mừng Chúa hỡi toàn thể địa cầu! Hát lên mừng Chúa chúc tụng Thánh Danh. Ngày
qua ngày, hãy loan báo ơn Người cứu độ”
(Tv 96/95,1-2).
THUỘC LÒNG
Ngày hôm nay, ước gì
anh em nghe tiếng Chúa. (Tv 95/94,7)
Linh mục GIUSE ĐINH QUANG THỊNH