Kinh Thánh
Thời kỳ
Sách
Chương
 
      Lm. Trịnh Ngọc Danh
Bài giảng
THỨ BA SAU CN 1 MÙA VỌNG: LỜI CHÚA LÀM CHO NGƯỜI LÀNH KẺ DỮ SỐNG HÒA HỢP
BÀI ĐỌC 1 VÀ 2 (NẾU CÓ)
BÀI ĐỌC: Is 11,1-10
1 Ngày ấy, từ gốc tổ Gie-sê, sẽ đâm ra một nhánh nhỏ,từ cội rễ ấy, sẽ mọc lên một mầm non.2 Thần khí Đức Chúa sẽ ngự trên vị này: thần khí khôn ngoan và minh mẫn, thần khí mưu lược và dũng mãnh, thần khí hiểu biết và kính sợ Đức Chúa. 3 Lòng kính sợ Đức Chúa làm cho Người hứng thú, Người sẽ không xét xử theo dáng vẻ bên ngoài, cũng không phán quyết theo lời kẻ khác nói, 4 nhưng xét xử công minh cho người thấp cổ bé miệng, và phán quyết vô tư bênh kẻ nghèo trong xứ sở. Lời Người nói là cây roi đánh vào xứ sở, hơi miệng thở ra giết chết kẻ gian tà. 5 Đai thắt ngang lưng là đức công chính, giải buộc bên sườn là đức tín thành. 6 Bấy giờ sói sẽ ở với chiên con, beo nằm bên dê nhỏ. Bò tơ và sư tử non được nuôi chung với nhau, một cậu bé sẽ chăn dắt chúng. 7 Bò cái kết thân cùng gấu cái, con của chúng nằm chung một chỗ, sư tử cũng ăn rơm như bò. 8 Bé thơ còn đang bú giỡn chơi bên hang rắn lục, trẻ thơ vừa cai sữa thọc tay vào ổ rắn hổ mang. 9 Sẽ không còn ai tác hại và tàn phá trên khắp núi thánh của Ta, vì sự hiểu biết Đức Chúa  sẽ tràn ngập đất này, cũng như nước lấp đầy lòng biển.10 Đến ngày đó, cội rễ Gie-sê sẽ đứng lên làm cờ hiệu cho các dân. Các dân tộc sẽ tìm kiếm Người, và nơi Người ngự sẽ rực rỡ vinh quang.
ĐÁP CA: Tv 71
Đ.        Triều đại Người, đua nở hoa công lý,
            và thái bình thịnh trị đến muôn đời.  (c 7)
1 Tâu Thượng Đế, xin ban quyền bính Ngài cho vị Tân Vương, trao công lý Ngài vào tay Thái Tử,
2 để Tân Vương xét xử dân Ngài theo công lý, và bênh vực quyền lợi kẻ nghèo hèn.
7 Triều đại Người, đua nở hoa công lý và thái bình thịnh trị tới ngày nao tuế nguyệt chẳng còn.
8 Người làm bá chủ từ biển này qua biển nọ, từ Sông Cả đến tận cùng cõi đất. muôn dân nước thảy đều phụng sự.
12 Người giải thoát bần dân kêu khổ và kẻ khốn cùng không chỗ tựa nương, 13 chạnh lòng thương ai bé nhỏ khó nghèo. Mạng sống dân nghèo, Người ra tay tế độ,
17 Danh thơm Người sẽ trường tồn vạn kỷ, nức tiếng gần xa dưới ánh mặt trời. Ước gì mọi sắc tộc trần gian, nhờ Người được chúc lành, và muôn dân thiên hạ ngợi khen Người có phúc. 
BÀI TIN MỪNG
TUNG HÔ TIN MỪNG:
Hall-Hall: Kìa Chúa chúng ta ngự đến uy quyền, sẽ chiếu tỏa ánh quang cho tôi tớ Người rạng ngời đôi mắt. Hall.
TIN MỪNG: Lc 10,21-24
 21 Được Thánh Thần tác động, Đức Giê-su hớn hở vui mừng và nói: "Lạy Cha là Chúa Tể trời đất, con xin ngợi khen Cha, vì Cha đã giấu kín không cho bậc khôn ngoan thông thái biết những điều này, nhưng lại mạc khải cho những người bé mọn. Vâng, lạy Cha, vì đó là điều đẹp ý Cha.
22 "Cha tôi đã giao phó mọi sự cho tôi. Và không ai biết người Con là ai, trừ Chúa Cha, cũng như  không ai biết Chúa Cha là ai, trừ người Con, và kẻ mà người Con muốn mặc khải cho."
23 Rồi Đức Giê-su quay lại với các môn đệ và bảo riêng: "Phúc thay mắt nào được thấy điều anh em thấy!24 Quả vậy, Thầy bảo cho anh em biết: nhiều ngôn sứ và nhiều vua chúa đã muốn thấy điều anh em đang thấy, mà không được thấy, muốn nghe điều anh em đang nghe, mà không được nghe." 
BÀI GIẢNG
LỜI CHÚA LÀM CHO
NGƯỜI LÀNH KẺ DỮ SỐNG HÒA HỢP
Đức Giêsu nói với ông Nicôđêmô: “Thiên Chúa yêu thế gian đến nỗi đã ban Con Một, để ai tin vào Con của Người thì khỏi phải chết, nhưng được sống muôn đời”(Ga 3,16). Nhưng muốn được Ngài cứu độ ta phải tin yêu Ngài, thể hiện bằng “chịu Phép Rửa nhân danh Đức Giêsu Kitô để được ơn tha tội và được lãnh nhận ân huệ là Thánh Thần” (Cv 2,38). Vì “dưới gầm trời này, không một danh nào khác đã được ban cho nhân loại, để chúng ta phải nhờ vào danh đó mà được cứu độ” (Cv 4,12), đồng thời ta còn phải tin và hiệp thông với Hội Thánh là Thân Thể Mầu Nhiệm Chúa Kitô (x Ep 5,23b). Sau khi Chúa Giêsu phục sinh, Ngài và Chúa Cha chỉ nói với loài người qua Hội Thánh Công Giáo mà thôi. Như Đức Giêsu đã nói “Cha tôi giao phó mọi sự cho tôi. Và không ai biết Người Con là ai trừ Chúa Cha, cũng không ai biết Chúa Cha là ai, trừ Người Con và kẻ mà Người Con muốn mạc khải cho. Chúa Cha đã giấu không mạc khải cho bậc khôn ngoan thông thái biết những điều này, nhưng lại mạc khải cho những người bé mọn. Vâng, lạy Cha, vì đó là điều đẹp ý Cha” (Lc 10,21-22: Tin Mừng). Như vậy ai đã thuộc về Hội Thánh, thì đều được Chúa mạc khải cho, để dù họ có sống chung với “dã thú” (kẻ ác), họ cũng giống “Đức Giêsu trong hoang địa bốn mươi đêm ngày, sống giữa dã thú mà chúng không làm hại Ngài, và các thiên thần đến hầu hạ” (Mc 1,12-13 = Is 11,6-9: Bài đọc). Một khi chúng ta đã xác tín Chúa Giêsu chỉ trao cho Hội Thánh quyền công bố Lời Ngài, để loài người được sống hạnh phúc và bình an, thì ta phải tuyên xưng cho đồng loại về Đức Tin của mình.
I. CHỈ CÓ HỘI CHÚA CÔNG GIÁO MỚI NÓI ĐÚNG Ý CHA TRÊN TRỜI
Xác quyết như thế không phải là người Công Giáo muốn “vơ phần chăn” về phía mình, mà căn cứ vào một số chứng từ trong mạc khải sau đây :
1- Chúng ta biết Đức Giêsu  chấm dứt giảng và trao quyền giảng  cho Hội Thánh từ lúc Ngài bị đưa ra tòa án. Thực vậy, thượng tế Caipha – chánh án – hỏi Đức Giêsu : “Ông dạy giáo lý thế nào, nói cho chúng tôi nghe ?” Đức Giêsu  đáp ngay: “Tôi đã không nói gì bí mật cả, tôi đã nói công khai nơi các hội đường và nhà thờ, hằng ngày tôi giảng dạy ở đó, cứ vào đó mà hỏi người đã nghe tôi nói !” (Ga 18,19-21).
Chúng ta để ý đến hai điều Đức Giêsu  nói với thượng tế Caipha.
·   Hằng ngày tôi giảng dạy trong Nhà Thờ”:  Đó chính là ở Nhà Thờ, Hội Thánh hằng ngày giảng dạy cho dân (x Cv 2,42-46). Đức Giêsu chỉ có hai lần trong đời Ngài giảng tại đền thờ: Lúc 12 tuổi (x Lc 2,41t) và khi Ngài đuổi quân buôn bán ra khỏi Đền thờ (x Lc 19,47).
·   Vào Nhà Thờ hỏi người nghe tôi nói”: Tức là vào Nhà Thờ nghe lời Hội Thánh giảng dạy khi cử hành Phụng vụ, nhất là Thánh Lễ, dù không ai thấy Chúa Giêsu nhưng Đức Tin dạy ta trong Thánh Lễ, Chúa Giêsu trực tiếp giảng dạy (x Dt 1,1-2). Vì Đức Giêsu đã nói: “Ai nghe lời môn đệ Ta là nghe Ta, và hết thảy ai khước từ môn đệ Ta là khước từ Ta, và khước từ Đấng đã sai Ta” (Lc 10,16).
Một kịch tính xảy ra : Nơi tòa án, khi Đức Giêsu trả lời câu hỏi giáo lý của thượng tế Caipha: “Cứ hỏi người nghe tôi nói”,  thì trong sân tòa, người ta liền hỏi ông Phêrô, thủ lãnh Nhóm Mười Hai đã từng được nghe Đức Giêsu  giảng dạy :
          - Chắc bác thuộc về ông Giêsu ?
          Ông Phêrô giật bắn người lên, chối ngay :
          - Tôi không hề biết ông ấy.
          Ở sân ông Phêrô chối Thầy, thì trước tòa án, Đức Giêsu  lại giục người ta: “Cứ hỏi người đã nghe tôi nói”. Thế là người khác lại đến hỏi ông Phêrô :
          - Tôi biết bác ở vườn Cây Dầu với ông Giêsu mà ?
          Ông Phêrô lại kéo gân cổ lên thề:
          - Tôi thật không biết gì về ông Giêsu đó cả!
          Đức Giêsu thấy Phêrô còn chối, Ngài lại bảo người ta:
          - Cứ hỏi người nghe tôi nói.
          Thế là một đứa tớ gái cất tiếng hỏi ông Phêrô :
          - Nghe giọng bác nói, tố cáo bác là người Galilê, đồng hương với ông Giêsu ? (Không biết người khác nghe giọng ta nói, họ có nhận ra ta là người Công giáo, thuộc về Đức Giêsu  hay không?!)
          Ông Phêrô vẫn quyết liệt chối :
          - Tôi thề là tôi thật không biết chị nói gì ?
          Tức thì gà liền gáy, ông Phêrô sực nhớ lại lời Thầy đã nói cho ông biết: “Trước khi gày gáy, con đã chối Ta ba lần !”  Ông òa lên khóc, tỏ dấu sám hối!
Sự việc trên đây đã xác quyết với mọi người: ĐỨC GIÊSU CHẤM DỨT GIẢNG, VÀ NGÀI ĐÃ DỨT KHOÁT TRAO QUYỀN GIẢNG LỜI CHO HỘI THÁNH CÔNG GIÁO TỪ LÚC NGÀI BỊ LÊN ÁN TỬ ! Dù những vị chủ chăn trong Hội Thánh có bất xứng như ông Phêrô chối Thầy, Đức Giêsu  cũng vẫn bảo mọi người: “Muốn biết giáo lý tôi dạy, cứ vào nhà thờ hỏi người đã nghe tôi nói!”Chứ Ngài không bảo ai đến gặp vị thánh nào, hay thiên thần nào mà hỏi (x Ga 18,19t ; Mt 26,69t).
2- Để xác tín thêm tầm quan trọng mọi người phải nghe Lời Chúa qua Hội Thánh Công giáo, chúng ta nhớ lại lúc Chúa Cha giới thiệu Con chí ái của Người với ba môn đệ Đức Giêsu ở núi Hiển Dung, và Chúa Cha đã buộc mọi người phải nghe Lời Con của Người giảng dạy, thì Đức Giêsu  lại ra lệnh cấm các Tông Đồ, không được nói lại cho ai lời Cha mới truyền, cho đến khi Con Người từ cõi chết sống lại ! (x Mt 17) Không lẽ Đức Giêsu chống lại lời Chúa Cha vừa nói sao? Thưa không, Đức Giêsu bảo  các Tông Đồ phải im lặng cho đến khi Con Người từ cõi chết sống lại, vì hai lý do :
F Lời giảng của Đức Giêsu khi còn trên dương thế đã có Mẹ Maria chỉ dẫn cho mọi người: “Hãy đến cùng Giêsu, Ngài bảo gì cứ làm theo” (Ga 2,5).
F Khi Đức Giêsu chỗi dậy từ cõi chết, Ngài không giảng cho dân, nhưng là Hội Thánh (x Mt 28,19-20). Vì Ngài đã chấm dứt giảng và trao quyền giáo huấn cho Hội Thánh ngay từ lúc Ngài bị xử án, như chúng ta mới xác quyết trên đây. Cho nên lệnh Đức Giêsu cấm các môn đệ không được nói lại Lời Chúa Cha phán bảo “hãy nghe Lời Con chí ái của Ta”, đã trở thành lời giải thích: LỜI CHÚA CHA BUỘC PHẢI NGHE LỜI CHÚA GIÊSU, CHÍNH LÀ PHẢI NGHE LỜI GIẢNG CỦA HỘI THÁNH CÔNG GIÁO!
3- Tin Mừng chúng ta mới được nghe, thánh sử Luca ghi nhận: “Được Thánh Thần tác động, Đức Giêsu hớn hở vui mừng và nói: "Lạy Cha là Chúa Tể trời đất, Con xin ngợi khen Cha, vì Cha đã giấu kín không cho bậc khôn ngoan thông thái biết những điều này, nhưng lại mạc  khải cho những người bé mọn. Vâng, lạy Cha, vì đó là điều đẹp ý Cha” (Lc 10,21: Tin Mừng).
-    Chúa Cha không mạc khải cho “hạng khôn ngoan thông thái” là những đầu mục và các thượng tế tự mãn đã nắm trọn chân lý vì đã thông suốt Luật Môsê, thế mà họ lại tìm cách diệt Đức Giêsu và ngăn cản không muốn cho ai tin theo Ngài (x Ga 7,40-52).
-    Kẻ bé mọn” là người kiên trì sống Đức Ái trong Hội Thánh Công Giáo, họ hoàn toàn thuộc về Chúa Kitô, vì thế. Ta không chỉ hiểu “kẻ bé mọn” là trẻ con hay người thấp cổ bé miệng, nghèo khổ, mà nhất là phải hiểu “kẻ bé mọn” là người thuộc về Hội Thánh Chúa Kitô. Đan cử :
          F Đức Giêsu bảo các môn đệ: “Nếu các con không trở nên trẻ nhỏ, thì sẽ không vào được Nước Thiên Chúa” (Mt 18,3), và Ngài còn nói: “Hỡi các con thơ bé, Ta chỉ còn ở với các con với các con một ít nữa thôi” (Ga 13,33). Tuy thế “chúng con đừng sợ, hỡi đoàn chiên nhỏ bé, vì Cha các con đã khấng ban Nước Trời cho các con” (Lc 12,32).
          F Thánh Gioan cũng gọi các tín hữu bằng thuật ngữ “các con thơ bé” trong các thư ông viết cho giáo đoàn, dù trong cộng đoàn có những người lớn tuổi hơn ông (x 1Ga 2,1.12.14.18.28).
4- Thực vậy sau khi ông Phêrô - thủ lãnh Hội Thánh - tuyên xưng Đức Tin về Đức Giêsu: “Thầy là Đấng Kitô, Con Thiên Chúa hằng sống”, thì được Ngài xác nhận ngay: “Này anh Simon, con ông Giona, anh thật là người có phúc, vì không phải phàm nhân mạc khải cho anh điều ấy, nhưng là Cha Thầy Đấng ngự trên trời. Trong khi đó có nhiều người ngoài Nhóm Mười Hai nói tốt về Đức Giêsu: “Kẻ thì nói là ông Gioan Tẩy Giả, kẻ thì bảo là ông Êlya,  có người lại cho là ông Giêrêmia, hay một trong các vị ngôn sứ”.Thế màĐức Giêsu không xác nhận là Cha trên trời cho họ nói, ngoại trừ ông Phêrô (x Mt 16,13-20).
5- Cũng vì vậy mà Đức Giêsu đã nói với mọi người: “Ai nghe lời môn đệ tôi là nghe tôi và nghe Đấng đã sai tôi, và ai khước từ môn đệ tôi là khước từ tôi, và khước từ Cha tôi” (Lc 10,16).
6- Vì chỉ có Hội Thánh Công Giáo công bố Lời Chúa, nên thánh Phaolô đã nói với giáo đoàn Galata: “Dù các thiên thần từ  trời xuống trần gian đến giảng Lời Chúa khác với chúng tôi, thì nó là đồ chúc dữ !” (Gl 1,8)
 Vậy nếu có ai đó trăn trở  muốn tìm hiểu Lời Chúa nhiều, khi đến dự Phụng Vụ của Công Giáo, vẫn chưa thỏa mãn, nên tìm đến nhà thờ Tin Lành, thì có nên không? Tưởng rằng ai đã nắm vững giáo lý của Công Giáo thì có thể đến nhà thờ Tin Lành nghe thêm được. Nhưng  nếu người Công Giáo nào còn non yếu về giáo lý, thì chớ nên tới đó, vì hai lý do:
A. Về mặt tâm lý  
Anh em Tin Lành chủ trương mỗi người tự đọc Thánh Kinh và tự hiểu. Ai hiểu thế nào, thì Chúa dạy như vậy! Nếu thế ở bên Hoa Kỳ có trên 1.000 nhóm hiểu Thánh Kinh khác nhau, mỗi nhóm tự lập ra Hội Thánh riêng, có Nhà Thờ riêng và nhóm nào cũng cho Hội Thánh của mình mới hiểu đúng Lời Chúa. Do đó, có một số người quá khích kết án nhóm khác là tà đạo. Bởi thế dù Tin Lành ở Mỹ nhiều hơn mọi quốc gia khác, nhưng họ không mạnh vì thiếu hiệp thông. Thế thì tôi biết chọn nhà thờ Tin Lành nào giảng đúng ý Chúa ? Vả lại nếu có hai điều đúng mà thiếu hiệp thông, đã trở thành điều ác ! Ví dụ:  vợ nói với chồng: Bán nhà ở thành phố về quê mua đất rộng rãi, làm nhà cho các con ở thoáng mát, con cái lại không vướng tật xấu ở chốn đô thị, dễ dạy và đỡ hư hơn. Vợ nói đúng. Nhưng chồng lại nói: Về quê, việc học của con cái không thuận lợi, tôi về đó không kiếm được việc làm theo khả năng, làm gì ra tiền để nuôi gia đình, đang khi tôi có một công việc rất tốt ở thành phố ! Chồng nói đúng. Nếu chồng cứ làm theo ý của mình, và vợ cũng khư khư làm theo điều đã quyết định, thì chắc chắn gia đình sẽ tan vỡ! Đấy mới chỉ có hai điều đúng mà thiếu hiệp thông, đã trở thành điều ác ! Huống hồ cả trên 1.000 Hội Thánh Tin Lành không hiệp thông, thì sự ác sẽ gia tăng thế nào ?! Điều này khác hẳn với Giáo Hội Công Giáo, mọi Nhà Thờ Công Giáo trên khắp thế giới các chủ chăn đều cùng một Đức Tin, giải thích Lời Chúa cho dân.
B. Về mặt tín lý
Anh em Tin Lành chỉ dựa vào Thánh Kinh để cắt nghĩa. Trong Hội Thánh Công giáo, ai muốn cắt nghĩa Lời Chúa, phải dựa giáo huấn của Công Đồng Vat.II trong Sắc Lệnh về Nhiệm Vụ Mục Vụ của các Giám Mục số 14 dạy: Bài giáo lý phải dựa trên năm nguồn sau :
a* Thánh Truyền:  Có trước văn tự, văn tự là con đẻ, là một phần của Thánh Truyền. Vì Lời Chúa trong Tân Ước mãi tới khoảng năm 60 mới có ông Marcô viết đầu tiên, ông chỉ tóm tắt ghi lại một phần nội dung chính từ các bài giảng của thánh Phêrô. Ta lại biết lời giảng thì sinh động và phong phú hơn bài viết,  văn bản chỉ tóm tắt lời giảng,và Chúa cũng không bảo các môn đệ viết Lời Chúa trao cho người khác, mà Ngài chỉ ra lệnh: “Chúng con hãy đi giảng dạy cho muôn dân…” (x Mt 28, 19-20).
b* ThánhKinh: Đức Giêsu không để lại cho ai một chữ nào, mà Ngài chỉ dùng tám chứng nhân: Matthêu, Marcô, Luca, Gioan, Phaolô, Giacôbê, Phêrô, Giuđa, để viết bộ Tân Ước. Cả đến sổ bộ Kinh Thánh  chúng ta đang có: Cựu Ước gồm 46 tác phẩm ; Tân Ước có 27 tác phẩm. Bộ Kinh Thánh này đã được Hội Thánh định tín cho chúng ta: Toàn bộ Kinh Thánh Cựu và Tân Ước gồm có 73 cuốn. Do đó cuốn nào ngoài sổ bộ Thánh Kinh Công Giáo, dù đó là tác giả Luca, Phêrô, Giacôbê … thì sách ấy chỉ được xếp vào loại Ngụy kinh.
Mặt khác, khi ta đọc Thánh Kinh, muốn hiểu đúng ý Chúa, ta phải dựa vào nguyên tắc quan trọng này: “Giá trị của Cựu Ước được thể hiện trong Tân Ước ; giá trị của Tân Ước đã tiềm ẩn trong Cựu Ước.” (Hiến Chế Mạc Khải số 16). Nói cách khác, Cựu Ước là nụ, Tân Ước là bông, cánh chung mới có trái tốt! Bởi đó những gì ở Cựu Ước không được thể hiện nơi giáo huấn của Đức Giêsu hay trong giáo lý của Hội Thánh, thì đó chỉ là yếu tố loài người, chứ không phải là ý Chúa.
Giáo lý Hội Thánh dạy ta biết một đoạn văn Thánh Kinh có thể được tìm thấy bốn ý nghĩa
§         Nghĩa văn tự chỉ về biến cố.
§         Nghĩa ẩn dụ chỉ điều phải tin.
§         Nghĩa thần bí chỉ điều phải vươn lên.
§         Nghĩa luân lý chỉ việc phải làm và điều phải tránh. (theo GLHT số 115-119)
c* Giáo huấn của Hội Thánh: như Công Đồng Giê-ru-sa-lem, Công Đồng Ê-phê-sô, Công Đồng Tren-tô, Công Đồng Vat. II … và sách Giáo Lý Roma
d* Các sách Phụng Vụ: như sách Lễ Roma, sách Kinh Phụng Vụ, sách Các Phép .
e* Giáo Luật: Những hướng dẫn về giáo lý, những kỷ luật mọi sinh hoạt mục vụ của Hội Thánh.
Vậy mỗi khi ta dự Thánh Lễ, dù mắt xác thịt không nhìn thấy Chúa Giêsu, nhưng với mắt đức tin ta phải xác tín rằng: Chúa Giêsu trực tiếp nói với ta (x Dt 1,1), miễn là người giảng phải dựa vào các bản văn Thánh Kinh đã được Hội Thánh chọn trong mỗi Thánh lễ, mà trình bày các mầu nhiệm đức tin và các quy tắc cho đời sống Kitô hữu (x Hiến Chế Phụng Vụ số 24 và 52).
Khi ta đến dự Phụng Vụ Thánh Thể, không phải ta chỉ được nghe Lời Chúa mà thôi, mà còn được ăn Chúa Giêsu Phục Sinh (rước Lễ) để trở nên cùng một nguồn gốc, một xương thịt, cùng một sự sống với Chúa Giêsu (x Dt 2,11.14 ; Ga 6,57), đó là phúc lớn nhất hơn xưa các tổ phụ Do Thái mong ước mà không được, đúng như lời Đức Giêsu đã nói với các môn đệ: "Phúc thay mắt nào được thấy điều anh em thấy!Quả vậy, Thầy bảo cho anh em biết: nhiều ngôn sứ và nhiều vua chúa đã muốn thấy điều anh em đang thấy, mà không được thấy, muốn nghe điều anh em đang nghe, mà không được nghe." (Lc 10,23-24: Tin Mừng). Niềm vui cứu độ này làm bật miệng chúng ta hô lên: “Kìa Chúa chúng ta ngự đến uy quyền, sẽ chiếu tỏa ánh quang cho tôi tớ Người rạng ngời đôi mắt” (Tung Hô Tin Mừng).
II. LỜI CHÚA GIÚP TA SỐNG HÒA HỢP VỚI CÁC “DÃ THÚ
Ngôn sứ Isaia đã nói về ngày Thiên Chúa thực hiện lời hứa cứu độ loài người: “Ta sẽ gây mối thù giữa mi và người đàn bà, giữa dòng giống mi và dòng giống người ấy ; dòng giống đó sẽ đánh vào đầu mi, và mi sẽ cắn vào gót nó.” (St 3,15). Quả thực chỉ có Chúa Giêsu làm ứng nghiệm lời ngôn sứ Isaia: “Bấy giờ sói sẽ ở với chiên con, beo nằm bên dê nhỏ. Bò tơ và sư tử non được nuôi chung với nhau, một cậu bé sẽ chăn dắt chúng. Bò cái kết thân cùng gấu cái,con của chúng nằm chung một chỗ, sư tử cũng ăn rơm như bò. Bé thơ còn đang bú giỡn chơi bên hang rắn lục, trẻ thơ vừa cai sữa thọc tay vào ổ rắn hổ mang. Sẽ không còn ai tác hại và tàn phá trên khắp núi thánh của Ta, vì sự hiểu biết Đức Chúa  sẽ tràn ngập đất này, cũng như nước lấp đầy lòng biển” (Is 11, 6-9: Bài đọc).
Mà thực chỉ những ai sống trong Hội Thánh mà cầu nguyện với Chúa Giêsu, thì chẳng những không sợ “chó sói”, “rắn lục”, hay “rắn hổ mang” mà còn biến “chúng” thành Tông Đồ xuất sắc cho Chúa Kitô. Cụ thể, Phó tế Stêphanô bị “sói Saulo” ôm áo cho những “con rắn lục” ném đá ông cho đến chết. Như thế Phó tế Stêphanô đang sống giữa “dã thú”, nhưng nhờ lời cầu nguyện của  Stêphanô cho “sói Saulo”, kết quả “sói Saulô” trở thành Tông Đồ Phaolô xuất sắc của muôn dân (x Cv 7,54t – Cv 9).
Nhưng chỉ khi nào chúng ta được về Thiên Đàng với Chúa, lúc ấy mới thấy được hết giá trị Lời Chúa giúp cho ta sống giữa “dã thú” mà chúng không làm hại. Còn bây giờ Chúa vẫn cho phép “dã thú” vây ta, nên ta còn phải chịu đựng, tha thứ, cầu nguyện cho những “dã thú” đang gầm gừ muốn cắn xé ta, để “triều đại Người đua nở hoa công lý, và thái bình thịnh trị đến muôn đời” (Tv 72/71,7: Đáp ca).
Nhờ giáo huấn qua các Bài đọc hôm nay, ta xác tín rằng: Mỗi khi đi dự Lễ, ta được nhiều ân phúc hơn lòng mong ước, thế nhưng bản tính xác thịt con người mấy ai ham thích ? Có lần cuối Thánh Lễ, tôi nói với thiếu nhi 
- Sáng mai cha dẫn chúng con ra tiệm đãi mỗi em một tô phở.
Tất cả các em đều nhảy mừng:
- Chúng con cám ơn cha.
Sau đó, tôi lại nói với các em :
- Sau khi ăn phở xong, cha dẫn chúng con đi tắm biển Nha Trang.
Thế là mọi em nhảy lên vỗ tay :
- Hoan hô, hoan hô.
Cuối cùng, tôi nói:
- Sau chuyến đi chơi về, cha sẽ có Thánh lễ dành riêng cho thiếu nhi mỗi tuần.
Nghe thế mặt mọi em sụ xuống, buông tiếng thở dài ! Mặc cho cha nói: “Kìa Chúa chúng ta ngự đến uy quyền sẽ chiếu tỏa ánh quang cho tôi tới Người rạng ngời đôi mắt” (Tung Hô Tin Mừng).
THUỘC LÒNG
Khi còn trung thành với Lời Chúa, môi trường ta sống là vườn Địa Đàng ; khi ta bất trung với Lời Chúa, vườn Địa Đàng trở thành Địa Ngục, vì “gai góc” mọc lên cho ta (x St 2-3).
ã         ã        ã
TRỌNG TÂM GIÁO HUẤN HÔM NAY
Phúc lớn nhất của người Công Giáo là mỗi ngày đi dự Lễ được trực tiếp nghe Lời Chúa Giêsu dạy qua Phụng Vụ Hội Thánh cử hành, lại còn được hiệp thông với Chúa Giêsu Thánh Thể, cũng như được hiệp thông với Hội Thánh là Thân Mình Mầu  Nhiệm Chúa Kitô Giêsu, đến như được đồng  hóa với Ngài. Đó là quyết ý của Chúa Cha chỉ mạc khải cho những ai khiêm nhường khao khát chân lý (x Tin Mừng). Nhất là đối với những người hằng ngày đến hiệp dâng Thánh Lễ, chắc chắn được Chúa Giêsu ban cho hết ơn này đến ơn khác (x Ga 1,16), nhờ thế ta mới có thể sống hòa hợp với người lành  cũng như kẻ dữ, để được bình an (x Bài đọc).
Linh mục GIUSE ĐINH QUANG THỊNH  


Gửi phản hồi - thắc mắc

Tên của bạn *
Địa chỉ
Email *
Điện thoại
   
Câu hỏi

Lên đầu trang
Các bài giảng khác: