Kinh Thánh
Thời kỳ
Sách
Chương
 
      Lm. Trịnh Ngọc Danh
Bài giảng
THỨ BẢY SAU CN 33 TN-NĂM LẺ: PHỤC VỤ ĐỂ PHỤC SINH VINH HIỂN
Âm thanh
Video
[ Bấm play 2 lần liên tiếp để xem video. Vui lòng chờ chút nếu kết nối mạng chậm ]
BÀI ĐỌC 1 VÀ 2 (NẾU CÓ)
BÀI ĐỌC: 1Mcb 6,1-13
 
1 Hồi đó, vua An-ti-ô-khô rảo khắp các miền thượng du. Vua nghe tin ở Ba-tư có thành Ê-ly-mai, một thành nổi tiếng vì nhiều của cải vàng bạc.2 Đền thờ trong thành cũng có nhiều báu vật, có cả những mảnh giáp trụ bằng vàng, có áo giáp và vũ khí mà con vua Phi-líp-phê là A-lê-xan-đê đã để lại ; ông này là vua miền Ma-kê-đô-ni-a và là người đầu tiên cai trị nước Hy-lạp.3 Vậy vua An-ti-ô-khô đã tới đó, tìm cách đánh chiếm và cướp phá thành, nhưng không thành công, vì dân trong thành đã hay tin trước.4 Họ đứng lên giao chiến chống lại vua khiến vua phải bỏ chạy về Ba-by-lon, lòng buồn não ruột.5 Bấy giờ vua đang ở Ba-tư. Có người đến báo cho vua biết là các đoàn quân sang đất Giu-đa đã bị thảm bại :6 Tướng Ly-xi-a chỉ huy đoàn quân tinh nhuệ nhất đã bị người Do-thái đẩy lui. Những người này càng thêm mạnh nhờ vũ khí, quân nhu và và nhiều chiến lợi phẩm thu được của những đoàn quân đã bị họ đánh tan tành.7 Họ đã triệt hạ Đồ ghê tởm do vua xây ở trên bàn thờ dâng lễ toàn thiêu tại Giê-ru-sa-lem, rồi xây tường luỹ cao chung quanh Thánh Điện giống như ngày xưa. Cả thành Bết Xua của vua, họ cũng xây như vậy.8 Nghe tin ấy, vua rất đỗi kinh hoàng. Vua lâm bệnh liệt giường vì phiền não, lại cũng vì sự việc không diễn ra như lòng mong ước.9 Vua nằm liệt như thế đã lâu, nỗi buồn cứ ngày đêm ray rứt. Tưởng như ngày chết đã gần kề,10 vua cho vời bạn hữu đến và nói: "Tôi không thể chợp mắt, vì nỗi âu lo canh cánh bên lòng.11 Tôi tự nhủ: Tại sao giờ đây tôi phải điêu đứng khổ sở như thế này ? Trước kia, khi đang cầm quyền, tôi hạnh phúc và được yêu mến biết bao !12 Nhưng bây giờ, nhớ lại thời ở Giê-ru-sa-lem, tôi đã lấy mọi vật dụng bằng bạc bằng vàng, đã sai người đi tiêu diệt dân cư ở miền Giu-đa mà không có lý do chính đáng. Hồi tưởng lại những hành vi tàn bạo đó,13 tôi biết chắc rằng chính vì thế mà tôi gặp phải bao nhiêu tai biến, và giờ đây sắp phải chết nơi đất khách quê người vì buồn phiền vô hạn.”
 
ĐÁP CA: Tv 9/9A
 
Đ.  Lạy Chúa, con hỷ hoan vì được Ngài cứu thoát.  (c 15c)
 
2 Lạy Chúa, con hết lòng cảm tạ, kể ra đây muôn việc lạ Chúa làm. 3 Mừng Ngài, con hân hoan nhảy múa, đàn hát kính danh Ngài, lạy Đấng Tối Cao.
 
4 Ngài xuất hiện, địch thù con tháo lui, chúng té nhào mà chết. 6 Ngài hăm doạ chư dân, tiêu diệt lũ gian tà, tên tuổi chúng, cũng xoá đi vĩnh viễn.
 
16 Kìa chư dân sa vào hố chúng đào, chân mắc lưới chính mình giăng sẵn. 19 Nhưng người túng thiếu không mãi bị bỏ quên, kẻ nghèo khổ chẳng tuyệt vọng bao giờ. 
BÀI TIN MỪNG
TUNG HÔ TIN MỪNG: x 2Tm 1,10
 
Hall-Hall: Đấng Cứu Độ chúng ta là Đức Giê-su Ki-tô đã tiêu diệt thần chết, và đã dùng Tin Mừng mà làm sáng tỏ phúc trường sinh. Hall.
 
TIN MỪNG: Lc 20,27-40
 
27 Khi ấy, có mấy người thuộc nhóm Xa-đốc đến gặp Đức Giê-su. Nhóm này chủ trương không có sự sống lại.28 Mấy người ấy hỏi Đức Giê-su: "Thưa Thầy, ông Mô-sê có viết cho chúng ta điều luật này: Nếu anh hay em của người nào chết đi, đã có vợ mà không có con, thì người ấy phải lấy nàng, để sinh con nối dòng cho anh hay em mình.29 Vậy nhà kia có bảy anh em trai. Người anh cả lấy vợ, nhưng chưa có con thì đã chết.30 Người thứ hai,31 rồi người thứ ba đã lấy người vợ goá ấy. Cứ như vậy, bảy anh em đều chết đi mà không để lại đứa con nào.32 Cuối cùng, người đàn bà ấy cũng chết.33 Vậy trong ngày sống lại, người đàn bà ấy sẽ là vợ ai, vì cả bảy đều đã lấy nàng làm vợ?"
 
34 Đức Giê-su đáp: "Con cái đời này cưới vợ lấy chồng,35 chứ những ai được xét là đáng hưởng phúc đời sau và sống lại từ cõi chết, thì không cưới vợ cũng chẳng lấy chồng.36 Quả thật, họ không thể chết nữa, vì được ngang hàng với các thiên thần. Họ là con cái Thiên Chúa, vì là con cái sự sống lại.37 Còn về vấn đề kẻ chết trỗi dậy, thì chính ông Mô-sê cũng đã cho thấy trong đoạn văn nói về bụi gai, khi ông gọi Đức Chúa là Thiên Chúa của tổ phụ Áp-ra-ham,Thiên Chúa của tổ phụ I-xa-ác, và Thiên Chúa của tổ phụ Gia-cóp.38 Mà Người không phải là Thiên Chúa của kẻ chết, nhưng là Thiên Chúa của kẻ sống, vì đối với Người, tất cả đều đang sống."
 
39 Bấy giờ có mấy người thuộc nhóm kinh sư lên tiếng nói: "Thưa Thầy, Thầy nói hay lắm."40 Thế là, họ không dám chất vấn Người điều gì nữa 
BÀI GIẢNG
PHỤC VỤ ĐỂ PHỤC SINH VINH HIỂN
 
Khát vọng được sống hạnh phúc muôn đời là khát vọng thuộc bản năng của mọi người. Nhưng chỉ có Chúa Giêsu Phục Sinh mới có quyền làm cho xác hồn mọi người được sống lại. Trong Do Thái giáo vốn đã có niềm tin Phục Sinh, nhưng không thể minh chứng xác thực và cụ thể, do đó nó đã trở thành một đề tài tranh luận sôi nổi giữa hai nhóm Biệt phái và Sađốc. Chỉ một mình Đức Giêsu mới là trọng tài xác quyết có sự sống lại, dựa vào mạc khải và đồng thời Đức Giêsu cũng cho biết khái niệm chính xác về sự sống lại. Tuy nhiên, trong thế giới Phục Sinh, vinh hiển hay tủi nhục cũng còn tùy thuộc vào cách sống thiện hay ác của mỗi người
1. TẠI SAO NIỀM TIN PHỤC SINH KHÔNG ĐỒNG NHẤT TRONG DO THÁI GIÁO ?
Nhóm Sađốc chỉ tin Ngũ Thư của ông Mô-sê: Sáng thế, Xuất hành, Lê-vi, Dân số, Đệ nhị Luật, mà trong Ngũ Thư không mạc khải rõ về sự sống lại !
Trong khi nhóm Biệt phái yêu thích Lề Luật, nên họ đã nhận toàn bộ Cựu Ước gồm 46 cuốn làm kinh điển chính thức cho niềm tin. Niềm tin vào thế giới Phục Sinh chỉ được mạc khải rõ nét trong sách Ngôn sứ (x Os.6,1t ; Ez.37, 1-14 ; Is.51,17 và Is 60,1). Và rõ nhất sách Macabê ghi: “Khi sắp tắt thở, người con thứ tư nói như sau: "Thà chết vì tay người đời đang khi dựa vào Lời Thiên Chúa hứa mà hy vọng sẽ được Người cho sống lại." (2Mcb 7,14a).
Có lẽ mạc khải nói rõ về sự Phục Sinh trễ như thế vì lý do trước đây dân Do Thái khi họ đã xây thánh điện Giêrusalem, tưởng đó là đạt hạnh phúc vĩnh cửu. Nhưng khi vua Nabukodonosor cho quân đến phá Đền Thờ, dân bị lưu đày sang Babylon, làm cho dân Do Thái phải hoảng sợ, họ bắt đầu suy nghĩ hạnh phúc viên mãn không thể đóng khung ở đời này được, mà phải ở một thế giới khác. Vì bè Sađốc chỉ chấp nhận Ngũ Thư của ông Môsê, nên khi Đức Giêsu trả lời cho họ về sự Phục Sinh, Ngài đã trích một đoạn trong sách Xuất hành (nằm trong bộ Ngũ Thư), đoạn nói về tiếng Chúa phán dạy cùng ông Môsê khi ông thấy Bụi Gai bốc cháy: “Ta là Chúa của Ab-ra-ham, Chúa của Y-sa-ac, Chúa của Gia-cóp” (Xh.3, 2-6).
Và Đức Giêsu đã giải thích: ngay đoạn sách này, Thiên Chúa đã mạc khải sự sống lại, vì các tổ phụ Abraham, Giacóp đã chết trước khi Chúa gọi ông Môsê. Thế mà Chúa vẫn là Chúa các tổ phụ của ông Môsê, thì Ngài là Chúa của kẻ sống, chứ không phải là Chúa của kẻ chết ! Như thế là Đức Giêsu xác định: Người ta còn có sự sống nữa sau cuộc sống trần gian.
2.   SỐNG LẠI LÀ HỢP LÝ VÀ KI-TÔ GIÁO ĐÃ MINH CHỨNG ĐƯỢC ĐIỀU NÀY .
a- Sống lại là hợp: Con người đúng nghĩa không chỉ có xác hay chỉ có hồn, mà có cả xác hồn. Do đó điều lành hay điều dữ con người làm là cả xác hồn đều làm, không lẽ kết qủa chỉ có hồn được thưởng hay bị phạt ? Vì thế xác phải sống lại kết hợp với hồn để cùng chung một số phận mới là hợp lý !
Mặt khác, phải có thế giới Phục Sinh, một thế giới hoàn toàn không còn sự ác chế ngự con người, quyền lực sự ác phải bị tiêu diệt, để những ai sống chiến đấu vì công lý thì được sống trong thế giới chỉ có công lý. Bởi thế, thánh Phaolô nói: “Nếu ta đặt mối hy vọng vào Đức Kitô vỏn vẹn cho lúc sinh thời này thôi, thì qủa ta là kẻ khốn nạn nhất trong cả thiên hạ !”  (I Cr.15,19). Vì nếu người chết không sống lại, thì ta cứ sống ác để đè bẹp bất cứ ai, chứ dại gì mà phải chịu đựng, phải tha thứ cho kẻ hại mình, kết quả mình chịu thiệt là kẻ khốn nạn nhất trên đời.
b- Chỉ có Chúa Giêsu mới cho loài người được Phục Sinh, như Lời Ngài đã nói: “Phục sinh và sự sống chính là Ta, ai tin vào Ta, thì dầu có chết cũng sẽ sống” (Ga 11,25). Chân lý này đã được minh chứng bằng việc Chúa Giêsu cho nhiều người chết sống lại. Đan cử : Ngài đã làm cho con gái ông Giai-rô , con trai bà goá thành Naim, cậu Ladarô, được sống lại (x Mc.5,21t ; Lc.7, 11t ; Ga 11). Dĩ nhiên đấy mới chỉ là dấu chỉ sự Phục Sinh vào thời cánh chung và minh chứng chỉ có Chúa Giêsu Phục Sinh mới làm cho người ta được sống muôn đời. Vì “Ngài là Trưởng Tử trong số những người từ cõi chết chỗi dậy” (Kh 1,5), “Ngài đã tiêu diệt thần chết và đã dùng Tin Mừng mà làm sáng tỏ phúc trường sinh” (2Tx 1,10: Tung Hô Tin Mừng).
Chính Chúa Giêsu Phục Sinh mà các Tông Đồ đã được phúc sờ nắn, và cùng ăn uống với Ngài, mới thực là chứng minh giá trị sự sống thời cánh chung, vì thân xác Ngài đã được Thần hóa, nên cùng một lúc Ngài có mặt ở khắp nơi để phục vụ những khát vọng của những người đã từng theo Ngài (x Lc.24 ; Ga.20, 21).
3.   KIẾP SỐNG THỜI CÁNH CHUNG THẾ NÀO ?
Thánh Phaolô được Chúa cho lên đến “tầng trời thứ ba” tham quan, khi trở lại trần gian, ông nói: “Tôi được nghe những Lời khôn tả, người phàm không được phép nói lại” (x 2 Cr.12, 2.4).
Trong Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu, Đấng từ “tầng trời thứ chín” đến nói với chúng ta Lời khôn tả: Người sống trên Thiên Đàng khác với người sống dưới trần gian :
  + Họ không cưới vợ lấy chồng.
  + Họ giống như các thiên thần. (Lc.20, 34-35).
a-     Sống thời cánh chung không cưới vợ lấy chồng:
Sống ở đời này không ai thoát khỏi nỗi khổ vì tình cảm nam nữ: hoặc là khổ vì chính mình bị tình dục nổi loạn, hay là khổ vì bị  người ta hiểu lầm, dị nghị đàm tiếu về mình lén lút tình cảm xác thịt với ai đó! … Đến như thánh Phaolô cũng phải lên tiếng thanh minh cho mình: “Tôi không có quyền đem theo mình một tín nữ sao?” (I Cr.9,5). Thậm chí còn có những tiểu thuyết gán ghép cho cả Chúa Giêsu có người tình !
Bởi thế, nếu trong thế giới Phục Sinh mà người ta còn giăng mắc chuyện đòi vợ tranh chồng, thì thà không có thế giới ấy còn tốt hơn  ! Đó là luận cứ của bè Sađốc khi họ đặt câu hỏi với Chúa Giêsu về chuyện một bà đã có bảy đời chồng, thì trong thế giới Phục Sinh,  bà ấy là vợ của ai? (x Lc 20, 29-33: Tin Mừng).
Truyện kể:
Có vợ chồng kia mới cưới được một năm, đã vào cha Sở xin gỡ Hôn phối. Cha Sở ngạc nhiên hỏi :
- Ủa,  chúng con mới cưới một năm, sao đã bỏ nhau? Học giáo lý quên mục đích Hôn nhân sao ?
Cô vợ bình tĩnh :
- Thưa cha, con nhớ ngày đó cha dạy con: người chồng là Đức Kitô. Con cứ nghĩ chồng con đúng như vậy, ai dè từ ngày con lấy nó, con chẳng thấy nó giống Đức Kitô, chỉ thấy nó như thằng quỷ! Con lấy Đức Kitô chứ con đâu có lấy quỷ ?!
Anh chồng cũng không vừa :
- Thưa cha, con thấy vợ người ta mà thèm.
Cha Sở ngạc nhiên :
- Con thèm vợ người ta ư? Như thế là con đã lỗi điều răn thứ chín, con đã ngoại tình trong tư tưởng, thảo nào vợ chồng con bất hòa.
- Thưa cha, con thèm vì thấy vợ người ta ốm ngày hôm trước, hôm sau nó chết liền ; còn con vợ của con, nó đau mãi mà chẳng chết ! Con nuôi con gì nó cũng chết, trừ nuôi con vợ nó không chết!
Vì vậy, thánh Phaolô lên tiếng khuyên: “Bạn đã kết hôn với một người đàn bà ư? Đừng tìm cách gỡ ra. Bạn chưa kết hôn với một người đàn bà ư? Đừng lo kiếm vợ. Nhưng nếu bạn cưới vợ, thì cũng chẳng có tội gì. Và nếu người con gái lấy chồng, thì cũng chẳng có tội gì. Tuy nhiên, những người ấy sẽ tự chuốc lấy những nỗi gian truân khốn khổ. Mà tôi, tôi muốn cho anh em thoát khỏi điều đó. Thưa anh em, tôi xin nói với anh em điều này: thời gian chẳng còn bao lâu. Vậy từ nay những người có vợ hãy sống như không có” (1Cr 7, 25-29). Vì Đức Giêsu đã dạy: “Con cái đời này cưới vợ lấy chồng, chứ những ai được xét là đáng hưởng phúc đời sau và sống lại từ cõi chết, thì không cưới vợ cũng chẳng lấy chồng. Quả thật, họ không thể chết nữa, vì được ngang hàng với các thiên thần. Họ là con cái Thiên Chúa, vì là con cái sự sống lại” (Lc 20, 34-36: Tin Mừng).
b- Sống trong thế giới Phục Sinh thì phải giống như thiên thần (x Lc 20,36b:Tin Mừng), mà Chúa dựng nên thiên thần chỉ nhằm mục đích “sai đi giúp đáp vì phần ích những kẻ sẽ thừa hưởng ơn cứu độ” (Dt.1,14). Vì phục vụ là nét sáng chói diễn tả vinh quang Phục Sinh, nên khi Chúa Giê-su từ cõi chết sống lại, Ngài đã mặc lấy hình ảnh người làm vườn để tỏ mình ra cho bà Maria Madala (x Ga 20,15). Và mỗi lần Chúa Giêsu Phục Sinh đến với các Tông Đồ thì Ngài cắt nghĩa Kinh Thánh cho họ (x Lc.24), chỉ dẫn họ cách đánh cá, rồi nướng bánh và cá phục vụ họ (x Ga.21), thông chia cho họ quyền bính và trao việc cho họ để cộng tác với Ngài đi cứu đời ! (x Ga 20, 19t ; Mt.28, 18t).
Sở dĩ việc phục vụ của thánh Phao-lô không thua các Tông Đồ thượng đẳng (x 2 Cr 11,5), là vì ngoài trí thông minh và văn hóa của ông trổi vượt hơn các tông đồ Chúa trọn trước Phục Sinh, nhất là ông hơn các tông đồ khác vì sống độc thân. nên ông có nhiều điều kiện phục vụ thuận lợi hơn, không bị phân tâm về chuyện gia đình như ông Phêrô đã có vợ.
Vậy mỗi người hãy cầu nguyện và tự chọn nếp sống nào hy vọng sẽ sống đẹp lòng Chúa nhất :
-    Hoặc là chọn bậc tu trì để chuyên lo cầu nguyện và giảng Lời cho mọi người (x Cv.6,1-7).
-    Hoặc là sống bậc gia đình để chuyên lo diễn tả tình yêu giữa Chúa Kitô và Hội Thánh (x Ep.5,11t).
-    Hoặc là sống độc thân vì Nước Trời để được tự do làm việc của Thiên Chúa, phục vụ nhu cầu của đồng loại, diễn tả nếp sống Nước Trời thời cánh chung (x Lc.20, 35-36).
Để có nghị lực lướt thắng được những nghịch cảnh khi thi thành sứ mệnh theo ơn gọi riêng của mỗi người đã chọn, chỉ có cách là ta tin Chúa sẽ cho sống lại, lúc đó Ngài thưởng cho mỗi người bội hậu. Thực vậy, Chúa cho ông Gioan nhìn thấy viễn tượng ai thuộc về Ngài sẽ chiến thắng trong thế giới Phục Sinh: “Hai nhân chứng của Ta đến tuyên sấm, đó là hai cây ô-liu và hai cây đèn đứng trước nhan Chúa Tể cõi đất.Nếu ai muốn làm hại các ngài, thì lửa sẽ từ miệng các ngài phát ra và thiêu huỷ thù địch của các ngài. Các ngài có quyền đóng cửa trời lại, khiến mưa không rơi xuống trong những ngày các ngài làm ngôn sứ.. Khi các ngài đã hoàn thành nhiệm vụ làm chứng, thì Con Thú từ vực thẳm sẽ lên tấn công các ngài, nó sẽ thắng và giết các ngài., ở chính nơi Chúa của các ngài đã chịu đóng đinh vào thập giá.Sau ba ngày rưỡi, sinh khí từ Thiên Chúa đến nhập vào các ngài, và các ngài đứng dậy được. Những kẻ đang nhìn các ngài đều kinh hãi.12Và các ngài lên trời trong đám mây, trước mắt thù địch của các ngài”. (Kh.11,4-12: Bài đọc năm chẵn).Đó là chiến thắng của hai thánh Phêrô và Phaolô sau khi đã hoàn tất ơn gọi của mình. Bởi các ngài vẫn tin “Chúa là núi đá cho ta nương ẩn” (Tv 144/143,1a: ĐC năm chẵn). Vì thế vào ngày cánh chung tất cả dòng giống Ađam Evà gồm người lành và kẻ dữ đều được Chúa cho sống lại :
§    Xác hồn người lành sống lại, để muôn đời được vinh hiển như Chúa (x 1Ga.2,6).
§    Xác hồn kẻ dữ sống lại, để chuốc lấy khổ nhục đời đời (x Mt 25, 41-46).
Vậy muốn sống lành, tránh dữ để được Phục Sinh vinh hiển, ta phải hiểu và sống điều Đức Giêsu giải thích về sự Phục Sinh trong sách Xuất hành mà Tin Mừng hôm nay có nhắc đến (x Lc.20, 37-38). Sự Phục Sinh được mạc khải trong đoạn nói về bụi gai :“Lửa bốc cháy giữa bụi gai mà gai không bị thiêu rụi”  (Xh.3, 2). Lửa ấy là dấu chỉ về Thiên Chúa tình yêu (x Dt.12,29), đặc biệt lúc Đức Giê-su bị treo trên thập gía, “lửa yêu” ấy không thiêu rụi mạo gai đội đầu Ngài . đó là dấu tình yêu của Đức Giê-su bốc lên như lửa, nên Ngài xin với Chúa Cha tha tội cho kẻ hại mình (x Lc.23,34). Bởi thế, ai biết sám hối tội mình, xin Chúa thương xót như anh trộm lành, đều được Chúa đưa vào Thiên Đàng ngay (x Lc 23,43). Nên ngay trong Thánh Lễ này “bụi gai vẫn bốc cháy”: Đó là lửa tình yêu Chúa Giêsu thiêu rụi tội lỗi ta và ban sự sống Phục Sinh cho ta. Bởi đó ,ta cũng phải tha thứ cho kẻ làm hại ta và làm lành cho họ như lời thánh Phaolô dạy: “Nếu kẻ thù đói, hãy cho nó ăn, nó khát hãy cho nó uống, làm thế như ngươi đã chất than hồng trên đầu nó, chớ để dữ thắng được ngươi, nhưng hãy lấy lành mà thắng dữ!” (Rm 12,20-21). Ai sống được thế mới được đồng danh với Chúa Giêsu là “Con Đấng Tối Cao” (x Lc 1,32 ; Lc 6,35). Đúng như lòng tin vào Lời Kinh Thánh : “Con hoan hỷ được Ngài cứu thoát” (Tv 9/9A,15c: ĐC năm lẻ). Nhưng chúng ta đừng quên rằng “Thiên Chúa chúng ta cũng là lửa thiêu” (Dt 12,29) ; “Ngài là Đấng không vị nể ai, nhưng cứ theo công việc mỗi người mà xét xử” (1Pr 1,17a). Kẻ nào sống ác, dùng quyền vơ vét, chiếm đoạt tài sản của người khác, như “vua An-ti-ô-khô, (ông đã chiếm đoạt vàng bạc nơi Đền Thờ Giê-ru-sa-lem), rồi ông rảo khắp các miền thượng du. Vua nghe tin ở Ba Tư có thành Ê-ly-mai, một thành nổi tiếng vì nhiều của cải vàng bạc, vua đã tới đó tìm cách chiếm và cướp phá thành, nhưng thất bại, ông phải chạy về Babylon lòng buồn não ruột. Bấy giờ vua đang ở Ba-Tư, có  người đến báo cho vua biết là các đoàn quân của vua sang đất Giu-đa đã bị đánh bại. Nghe tin ấy, vua lâm bệnh liệt giường phiền não, vua cho vời bạn hữu đến và nói: “Tôi không thể chợp mắt, vì nỗi âu lo canh cánh bên lòng. Tôi tự nhủ: Tại sao giờ đây tôi phải điêu đứng khổ sở thế này. Trước kia đang khi cầm quyền, tôi được hạnh phúc và được yêu mến biết bao! Nhưng bây giờ nhớ lại thời ở Giê-ru-sa-lem, tôi đã lấy mọi vật dụng bằng bạc, bằng vàng, đã sai người đi tiêu diệt dân cư ở miền Giu-đa mà không có lý do chính đáng. Hồi tưởng lại những hành vị tàn bạo đó. Tôi biết chắc rằng chính vì thế mà tôi gặp phải bao nhiêu tai biến, và giờ đây tôi sắp phải chết nơi đất khách quê người vì buồn phiền vô hạn” (1Mcb 6,1-13: BĐ năm lẻ).
tai họa vua Antiôkhô gặp phải như thế, đã minh chứng cho mọi người biết: ai sống bất lương, sẽ bị khổ đời này, và trở thành dấu chỉ sẽ phải khổ muôn kiếp sau khi nhắm mắt lìa đời! Lúc ấy mới nhận biết Thiên Chúa là lửa thiêu. Ngài thanh tẩy sự ác,chỉ người sống công chính mới được sống hạnh phúc muôn đời trong nước Thiên Chúa.
THUỘC LÒNG
Con cái đời này cưới vợ lấy chồng, chứ những ai được xét là đáng hưởng phúc đời sau và sống lại từ cõi chết, thì không cưới vợ cũng chẳng lấy chồng. Quả thật, họ không thể chết nữa, vì được ngang hàng với các thiên thần. Họ là con cái Thiên Chúa, vì là con cái sự sống lại. (Lc 20,34-36).
 
************
 
TRỌNG TÂM GIÁO HUẤN HÔM NAY
Mỗi người được tự do chọn một trong ba nếp sống: lập gia đình, tu trì, độc thân giữa đời. Chọn nếp sống nào cũng phải nhằm phục vụ có hiệu quả cao nhất thì đó mới thực là người sống trong thế giới phục sinh như các thiên thần (x Tin Mừng) . Quả thật, ông Phêrô sống bậc gia đình; ông Phaolô sống bậc độc thân, cả hai ông đều sống đúng ơn gọi mình đã chọn. Do đó, hai ông đã trở nên như hai cây ôliu, như hai cây đèn sáng chói, chống đỡ tòa nhà Hội Thánh và soi sáng mọi người sống đạo làm đẹp lòng Chúa. Nhưng ông Phaolô phục vụ mang lại hiệu quả cao hơn ông Phêrô chỉ vì ông sống độc thân (x Bài đọc năm chẵn). Kẻ nào chỉ dùng bạo lực, mánh lới của mình mà vơ vét tiền của thủ thân như vua Antiôkhô, thì phải khổ nhục ngay từ đời này và chắc chắn muôn đời còn phải nghiến răng khóc lóc, chung số phận với Satan ( x Bài đọc năm lẻ).
Linh mục GIUSE ĐINH QUANG THỊNH
  

Gửi phản hồi - thắc mắc

Tên của bạn *
Địa chỉ
Email *
Điện thoại
   
Câu hỏi

Lên đầu trang
Các bài giảng khác: