Kinh Thánh
Thời kỳ
Sách
Chương
 
      Lm. Trịnh Ngọc Danh
Bài giảng
THỨ NĂM SAU CN 31 TN-NĂM LẺ: TRONG TAY CHÚA GIÊSU VÀ MẸ MARIA MỚI TUYỆT VỜI !
Âm thanh
Video
[ Bấm play 2 lần liên tiếp để xem video. Vui lòng chờ chút nếu kết nối mạng chậm ]
BÀI ĐỌC 1 VÀ 2 (NẾU CÓ)
BÀI ĐỌC: Rm 14,7-12
7 Thưa anh em, không ai trong chúng ta sống cho chính mình, cũng như không ai chết cho chính mình.8 Chúng ta có sống là sống cho Chúa, mà có chết cũng là chết cho Chúa. Vậy, dù sống, dù chết, chúng ta vẫn thuộc về Chúa;9 vì Đức Ki-tô đã chết và sống lại chính là để làm Chúa kẻ sống cũng như kẻ chết.10 Thế mà bạn, sao bạn lại xét đoán người anh em? Và bạn nữa, sao bạn khinh dể người anh em? Quả thế, tất cả chúng ta sẽ phải ra trước toà Thiên Chúa,11 vì có lời chép rằng: Đức Chúa phán: Ta lấy sự sống Ta mà thề: mọi người sẽ quỳ gối lạy Ta, và mọi miệng lưỡi phải xưng tụng Thiên Chúa.12 Như vậy, mỗi người trong chúng ta sẽ phải trả lời về chính mình trước mặt Thiên Chúa.
ĐÁP CA: Tv 26
Đ.        Tôi vững vàng tin tưởng sẽ được thấy ân lộc Chúa ban,
trong cõi đất dành cho kẻ sống.  (c 13)
1 Chúa là nguồn ánh sáng và ơn cứu độ của tôi, tôi còn sợ người nào? Chúa là thành luỹ bảo vệ đời tôi, tôi khiếp gì ai nữa?
4 Một điều tôi kiếm tôi xin, là luôn được ở trong đền Chúa tôi mọi ngày trong suốt cuộc đời, để chiêm ngưỡng Chúa tuyệt vời cao sang, ngắm xem thánh điện huy hoàng.
13 Tôi vững vàng tin tưởng sẽ được thấy ân lộc Chúa ban trong cõi đất dành cho kẻ sống. 14  Hãy cậy trông vào Chúa, mạnh bạo lên, can đảm lên nào! Hãy cậy trông vào Chúa. 
BÀI TIN MỪNG
TUNG HÔ TIN MỪNG: Mt 11,28
Hall-Hall: Chúa nói: Tất cả những ai đang vất vả mang gánh nặng nề, hãy đến cùng tôi, tôi sẽ cho nghỉ ngơi bồi dưỡng. Hall.
TIN MỪNG: Lc 15,1-10
1 Các người thu thuế và các người tội lỗi đều lui tới với Đức Giê-su để nghe Người  giảng.2 Những người Pha-ri-sêu và các kinh sư bèn xầm xì với nhau: "Ông này đón tiếp phường tội lỗi và ăn uống với chúng."3 Đức Giê-su mới kể cho họ dụ ngôn này:
4 "Người nào trong các ông có một trăm con chiên mà bị mất một con, lại không để chín mươi chín con kia ngoài đồng hoang, để đi tìm cho kỳ được con chiên bị mất?5 Tìm được rồi, người ấy mừng rỡ vác lên vai.6 Về đến nhà, người ấy mời bạn bè, hàng xóm lại, và nói: "Xin chung vui với tôi, vì tôi đã tìm được con chiên của tôi, con chiên bị mất đó. 7Vậy, tôi nói cho các ông hay: trên trời cũng thế, ai nấy sẽ vui mừng vì một người tội lỗi ăn năn sám hối, hơn là vì chín mươi chín người công chính không cần phải sám hối ăn năn.
8 "Hoặc người phụ nữ nào có mười đồng quan, mà chẳng may đánh mất một đồng, lại không thắp đèn, rồi quét nhà, moi móc tìm cho kỳ được?9 Tìm được rồi, bà ấy mời bạn bè, hàng xóm lại, và nói: "Xin chung vui với tôi, vì tôi đã tìm được đồng quan tôi đã đánh mất. 10 Cũng thế, tôi nói cho các ông hay: giữa triều thần Thiên Chúa, ai nấy sẽ vui mừng vì một  người tội lỗi ăn năn sám hối." 
BÀI GIẢNG
TRONG TAY CHÚA GIÊSU VÀ MẸ MARIA
 MỚI TUYỆT VỜI !
Ta biết ơn cứu độ loài người Thiên Chúa thực hiện không chỉ dựa trên tình thương của Chúa Giê-su, mà còn được tình thương của Mẹ Maria cộng tác với Chúa. Chân lý này Chúa Giê-su đã diễn tả qua hai dụ ngôn: Chiên lạc trở về và người đàn bà có mười đồng bị mất một phải tìm cho đủ.
1/ DỤ NGÔN TRĂM CON CHIÊN DIỄN TẢ TÌNH CHÚA THƯƠNG MUỐN QUY TỤ MỌI NGƯỜIVÀO HỘI THÁNH
Nếu ta cắt nghĩa dụ ngôn con chiên lạc theo nghĩa đen, thì thật là vô lý ! Vì người nuôi chiên, ai cũng mong vắt được nhiều sữa, lấy được nhiều thịt, đạt kinh tế cao. Thế thì 99 con chiên không lạc làm cho chủ có nhiều lợi tức hơn, vậy tại sao chủ không vui mừng khi 99 chiên không lạc, mà lại rất vui khi một con trở về, liệu nó có đem lại nhiều lợi tức cho chủ hơn 99 con kia không?!
Bởi đó, muốn hiểu đúng ý nghĩa và giá trị của dụ ngôn chiên lạc, ta phải biết số 100 mang ý nghĩa được Thiên Chúa chúc phúc. Nên ngôn sứ Isaia nói: “Ai chưa tròn 100 tuổi mà chết là dấu bị nguyền rủa” (Is 65,20).
Thế thì Chúa Giêsu hữu ý chọn 12 môn đệ làm nên Israel mới (x Lc 6,12-13), đây là dân được Chúa chúc phúc , nhưng cuối cùng chỉ còn 11, vì Giuđa đã tự tử (x Cv 1,18). Nên sau khi Chúa Giêsu từ cõi chết sống lại, Ngài đã chọn kẻ lạc đạo là Saulô vào hàng môn đệ, để làm tròn ý nghĩa con số 12 mà Ngài đã định từ trước.
Thực vậy, khi chiên lạc Saulô trở về ràn, ông đã không thua kém các Tông Đồ thượng đẳng (x 2Cr 11,5), xét về lượng cũng như về phẩm:
·   Về lượng: Nếu ta gạch bỏ hết những lời ông Phaolô nói trong Tân Ước, thì cuốn Kinh Thánh Tân Ước chẳng còn được bao nhiêu! Và một mình ông Phaolô thành lập được nhiều giáo đoàn như Côrinthô, giáo đoàn Galat, giáo đoàn Êphêsô, giáo đoàn Philiphê, giáo đoàn Côlôsê, giáo đoàn Thêsalônikê. Nếu ông Phaolô không trở về, thì có lẽ đạo Chúa đã bị ông khai tử từ lúc ông hằm hừ thở ra mùi sát khí, lãnh trát các thượng tế, xông tới Đama triệt hạ hết những ai tin vào Đức Giêsu, và hôm nay thế giới chưa ai được biết Chúa !?
·   Về phẩm: Giáo lý của thánh Phaolô giảng dạy về Đức Giêsu vô cùng phong phú và sâu sắc. Đến nỗi có nhiều người cho là Đức Giêsu  không lập Hội Thánh Công Giáo, mà là thánh Phaolô ! Và như vậy, chúng ta biết thánh Phaolô không đơn phương độc mã trở về với Chúa, mà ông còn trở thành chiên đầu đàn dẫn cả dân ngoại, trước đây không thuộc về đàn chiên của Đức Giêsu, nay được ở trong chuồng chiên, chính là Hội Thánh, dưới sự chăm sóc, dẫn dắt của Mục Tử Giêsu! Vì thế, thánh Tông Đồ đã khoe với ông Timôthê, môn đệ ông rằng: “Đức Giêsu  bước vào trần gian để cứu những người tội lỗi, trong số đó tôi là người thứ nhất !” (1Tm 1,15) Người thứ nhất ở đây không phải là người đầu tiên được Chúa cứu, mà là mẫu trở về với Đức Giêsu  cho tất cả mọi người. Hiểu như thế, chúng ta mới biết giá trị câu nói của Đức Giêsu : “Khi người tội lỗi ăn năn sám hối trở về, thì cả tầng trời rúng lên vì niềm vui mừng!” (Lc 15,7a). Thế thì :
ü Trong gia đình, người bố là chiên đầu đàn, như sách Huấn ca 30,4 nói: “Người bố dù có tắt thở ông cũng chưa chết, vì ông đã để lại con cái giống hệt ông!”
ü Trong một giáo xứ: Cha Sở là chiên đầu đàn. Thánh Gioan Maria Vianey nói: “Linh mục thánh thiện, thì giáo dân đạo đức ;  Linh mục đạo đức, thì giáo dân tầm thường ; Linh mục tầm thường, thì giáo dân ra quỷ!” Vậy nếu Linh mục mà ra quỷ, thì giáo dân còn độc ác hơn quỷ vương Beelzebul !!
ü Vậy nếu ta nhìn lên vị giáo sĩ cao cấp hơn cha Sở: Hồng y hoặc Giám mục mà sống tầm thường thua người vô thần, thì không biết giáo dân trong Địa phận có thua quỷ vương Beelzebul hay không?! Bởi thế thánh Augustin nói: “Làm Giám mục cho anh em, tôi rất lo sợ, làm tín hữu với anh em, tôi rất an tâm. Vì Giám mục chỉ là một chức vụ, tín hữu mới là một ân phúc. Giám mục là một danh hiệu nguy hiểm, tín hữu là một danh hiệu đem ơn cứu độ!”  (x HCHT số 32). Vì trong địa phận, Giám mục là chiên đầu đàn.
Chính vì vậy mà bất cứ Thánh Lễ nào, sau lời truyền phép, lời cầu nguyện đầu tiên là cho Giám mục thủ lãnh (Giáo  hoàng), và Giám mục địa phận, vì các vị này mới là người quyết định làm cho Hội Thánh được bốc lên. Như thế các vị này được nhận nhiều ơn nhất, thì phải trả lẽ trước mặt Chúa nhiều, đúng như Lời Kinh Thánh nói: “Mỗi người trong chúng ta sẽ  phải trả lẽ vì chính mình trước mặt Thiên Chúa” (Rm 14,12: Bài đọc năm lẻ).
Bởi vì mỗi giáo phận là một Hội Thánh vẹn toàn, vì Giám mục là hiện thân Tông Đồ của Đức Giêsu, là thầy dạy Đức Tin. Nên việc canh tân sống đạo của mọi thành phần trong Giáo phận hoàn toàn lệ thuộc vào Giám mục thủ lãnh Địa phận.  Do đó nếu có giáo dân hay Linh mục nào giống thánh Phao-lô, thì cũng chỉ là “đèn chói mắt”, làm nhức đầu người khác ! Nhưng nếu Giám mục là một Phao-lô mới, thì sẽ làm bốc lên sức sống đạo của dân Chúa trong địa phận, trở thành bó đuốc sáng, thành đèn hải đăng soi dẫn muôn dân tìm về ràn chiên của Đức Giêsu ! Thực là buồn cho Hội Thánh Chúa, suốt hơn 20 thế kỷ nay, mới chỉ có một Giám mục Phaolô mà thôi !
Vì sứ mệnh chính của Giám mục là thầy dạy Đức Tin, do đó giáo huấn của Công Đồng Vat.II trong Hiến Chế Hội Thánh số 25 dạy: “Việc rao giảng Phúc Âm là một nhiệm vụ trổi vượt trong các nhiệm vụ chính yếu của Giám mục, Giám mục là những người rao truyền Đức Tin, đem nhiều môn đệ mới về cho Chúa Ki-tô. Giám mục là những tiến sĩ đích thực, nghĩa là có uy quyền của Chúa Ki-tô, giảng dạy cho  những kẻ được trao phó cho các ngài”. Đối với các Linh mục, Giáo Luật số 773 và 776 đã buộc: “Cha Sở phải lo huấn luyện giáo lý cho người lớn, thanh niên và trẻ em. Cha Sở phải cổ võ và thúc đẩy cha mẹ chu toàn bổn phận dạy giáo lý trong gia đình. Đây là nhiệm vụ riêng biệt và nặng nề trong việc dạy giáo lý cho dân Chúa”.
Qua lời giáo huấn trên, ước gì hàng giáo sĩ làm đúng nhiệm vụ ngôn sứ Hội Thánh đã truyền là bài giảng phải liên kết các Bài đọc Hội Thánh đã chọn trong Phụng Vụ, từ đó trình bày các mầu nhiệm Đức Tin và những quy tắc cho đời sống Kitô hữu (x HCPV số 24 + 52) ; cũng như bài giáo huấn của chủ chăn phải đặt trên năm nền tảng: “Kinh Thánh , Thánh Truyền, Phụng Vụ, Giáo Huấn của các Công Đồng cũng như Sách Giáo Lý của Hội Thánh công bố năm 1992, và Giáo Luật là những quy luật sinh hoạt của Giáo Hội” (x Sắc Lệnh về Nhiệm Vụ Mục Vụ của các Giám Mục trong Giáo Hội số 14). Nếu không dựa trên nguyên tắc này để giảng giải, thì sự cố tháp Babel thuở xưa lại tái diễn: Con cháu Noe phải tản đi khắp mọi nơi, bỏ dở công trình xây tháp, vì mỗi người nói mỗi kiểu ! (x St 11).
Giám mục Phaolô đã trở thành mẫu cho các Giám mục khác, ông đã hiên ngang hãnh diện trong Đức Kitô mà nói: “Tôi không dựa vào xác thịt của mình, dù tôi là dòng dõi Israel, họ Benjamin, giữ Luật thì đúng như một người Biệt phái, nhiệt thành đến mức ngược đãi Hội Thánh. Nhưng những gì xưa kia tôi cho là có lợi, thì nay vì Đức Kitô tôi cho là thiệt thòi. Hơn nữa, tôi coi tất cả mọi sự là thiệt thòi so với mối lợi tuyệt vời là được biết Đức Giêsu Kitô,Chúa của tôi” (Pl 3,3-8: Bài đọc năm chẵn). Vì “tâm hồn những ai tìm kiếm Chúa nào hoan hỷ” (Tv 105/104,3b: ĐC năm chẵn).
Như thế các Giám mục phải là hiện thân Phaolô trở về canh tân đời sống Đức Tin của mình, để trở thành chiên đầu đàn cho cộng đoàn dân Chúa đã được trao phó cho các ngài dẫn dắt.
2/ DỤ NGÔN NGƯỜI ĐÀN BÀ CÓ 10 ĐỔNG BỊ MẤT 1 DIỄN TẢ TÌNH THƯƠNG CỦA MẸ MARIA
Dụ ngôn người đàn bà có 10 đổng bị mất 1 diễn tả tình thương của Mẹ Maria.Vì ta biết số 10 mang ý nghĩa vẹn toàn, như Mười Điều Răn của Chúa, ám chỉ ai tuân giữ là người hoàn hảo trong Chúa.
Chúng ta lại biết Chúa Giêsu là Thiên Chúa toàn năng, mà trong đời hoạt động công khai của Ngài còn cần đến Mẹ Maria cộng tác, từ khởi sự (x Ga 2) cho đến hoàn thành (x Ga 19 ; Cv 1,12-14). Trong lời kinh chúng ta hay cầu nguyện: “Từ khởi sự cho đến hoàn thành đều nhờ bởi ơn Chúa. Amen” ; thì Đức Giêsu cũng cần có Mẹ Maria cộng tác: “Từ khởi sự cuộc đời rao giảng của tôi cho đến lúc hoàn tất trên thập giá, tôi đều nhờ Mẹ cộng tác. Amen!” Đức Giêsu là Thiên Chúa toàn năng còn cần có Mẹ Maria cộng tác, còn ta là ai mà không chạy đến Mẹ xin bầu cử!?
Bởi thế Mẹ Maria có trách nhiệm làm cho công việc của Con Mẹ được trở nên hoàn hảo, cụ thể Mẹ muốn môn đệ của Đức Giê-su phải vẹn toàn về lượng cũng như về phẩm chất. Nhưng Mẹ luôn bị đặt vào tình trạng lo âu, vì thiếu sự vẹn toàn nơi các ông :
F  Số môn đệ của Đức Giêsu phải là 12, thế mà bị mất Giuđa đã tự tử, Mẹ đau đớn lắm.
F  Lúc Mẹ đứng dưới chân thập giá, Mẹ muốn đón nhận cả 11 môn đệ còn lại cũng phải là con của Mẹ. Nhưng lúc ấy chỉ có Gioan được Đức Giêsu trao cho Mẹ. Ông Gioan được vinh dự này vì ông đã can đảm vượt mọi sợ hãi, chứ không như 10 môn đệ kia đã nhớ Lời Thầy nói: “Tôi tớ không trọng hơn chủ, nếu người ta đã bắt bớ Thầy, thì họ cũng sẽ bắt bớ các con” (Ga 15,20), nên họ đã bỏ chạy hết ! Dụ ngôn  người đàn bà có 10 đồng lạc mất 1, đã làm bà lo lắng đi tìm kiếm, huống chi ở đồi Sọ, còn 11 môn đệ theo Thầy Giêsu, lại trốn mất 10, thì làm cho Mẹ lo lắng biết mấy! (x Ga 19,25-27)
F  Khi Chúa Giêsu Phục Sinh, Ngài đến với các môn đệ vào ngày Chúa nhật (thời Hội Thánh sơ khai, Chúa nhật là ngày dâng Lễ), Ngài chỉ gặp có 10 môn đệ, thiếu ông Tôma, chắc chắn Mẹ không vui gì. Một tuần sau ông Tôma mới trở về với cộng đoàn vào ngày Chúa nhật (dâng Lễ), thì làm cho Mẹ vui mừng biết chừng nào (x Ga 20,19t), vui hơn bà kia có mười đồng lạc mất một mà tìm lại được!
Đời người Kitô hữu nhờ dự tiệc Thánh Thể mà vui như Tết, vui hơn dự tiệc cưới, bởi vì đời sống Hội Thánh được ví như tiệc cưới (x Mt 22,1-14). Ta đừng lấy cớ chối từ như những người đã được vua mời đến dự: Kẻ nói: “Tôi mới mua đất” ; ông khác tâu: “Tôi mới tậu bò” ; còn anh nọ thì nói: “Tôi mới cưới vợ”, tất cả đều có lý do: không có giờ đi dự tiệc của vua ! (x Lc 14,15-24)
Thực ra tôi bảo không có giờ làm việc này, chỉ có nghĩa là thời giờ tôi đã dành cho việc mà tự tôi cho là quan trọng. Bởi đó, quan trọng việc gì thì có giờ cho việc ấy, nhất là việc mình yêu.
Ai yêu bản thân mình, yêu đồng loại như Chúa dạy mới là yêu Chúa (x 1Ga 4,20), thì phải bắt chước Mẹ Maria và các môn đệ có giờ cùng đi dự tiệc với Chúa Giêsu: Tiệc Thánh Thể để được đồng hành với Chúa Giêsu đi phục vụ đồng loại, khởi đi từ tiệc cưới Cana.
Thế thì một Kitô hữu tôn thờ Chúa và kính yêu Mẹ, càng cần có Mẹ ở bên, nhưng Chúa Giêsu chỉ muốn trao Mẹ Thánh Ngài cho ai can đảm vượt mọi rào cản, cụ thể không sợ mất thời giờ đi dâng Lễ mỗi ngày, để giống ông Gioan đã vượt qua sự sợ hãi đứng bên Mẹ Maria tham dự Hy Tế Chúa Giê-su dâng. Thế mà nhiều người đi dự Lễ thường sợ mất thời giờ làm việc. Mà có ai  sở hữu được thời giờ đâu? Vì “Thời giờ là của Thiên Chúa” (lời công bố khi làm Phép Nến trong đêm Phục Sinh). Rõ ràng thời giờ không thuộc quyền sở hữu của ai, mà người ta lại sợ mất! Một sự sợ hãi không tưởng, đến nỗi không vượt qua để đến dâng Lễ với Chúa Giê-su, thì làm sao đón Mẹ Maria về nhà mình như ông Gioan được! (x Ga 19,25-27). Sống như thế mới được Chúa Giêsu thực thi lời hứa: “Tất cả những ai đang vất vả mang gánh  nặng nề, hãy đến cùng tôi, tôi sẽ cho nghỉ ngơi bồi dưỡng” (Mt 11,28: Tung Hô Tin Mừng).
Truyện kể:
Cậu Ka-rôn Oát-ty-la (Karol Wojtyla) lên 7 tuổi, đứng bên giường mẹ đang hấp hối, cậu khóc nức nở! Người mẹ nắm tay con ôn tồn nói: “Con đừng khóc, mẹ này chỉ là vú nuôi con, khi Chúa rước vú này về với Chúa, thì người Mẹ thật của con là Đức Ma-ri-a xuất hiện, sẽ đích thân chăm sóc con.”
Từ ngày ấy, cậu Ka-rôn Oát-ty-la tỏ lòng sùng kính Đức Mẹ cách đặc biệt, tưởng đó cũng là lý do quan trọng mà ngày 18-10-1978 Chúa đã chọn ngài lên ngôi Giáo hoàng (Gio-an Phao-lô II), đem lại nhiều lợi ích cho Hội Thánh và cả xã hội trong mọi lãnh vực. Ngài thành công như vậy là đã sống như thánh Gioan Tông Đồ: “đưa Mẹ về nhà mình” (Ga 19,27).
                                                       **************
Một chú bé nghèo khổ, quần áo tả tơi, không biết chữ o tròn hay méo, lê đôi chân gầy đến một khu phố nghèo nàn ở Ba-lê (Pháp). Chú ấy là tên là Gioan, lên 6 tuổi, đi tìm ông già Bou-in, sống bằng nghề viết thư mướn.
 Chú bé vào nhà lễ phép cúi đầu chào ông cụ. Ông già hỏi:
-    Cháu muốn gì?
Chú vội thưa :
-  Cháu muốn viết một bức thư.
Ông già ra giá ngay :
-    Đưa đây 10 xu.
Chú bé ngập ngừng rồi thưa lại :
-    Xin lỗi cụ, cháu không có tiền.
Nói xong chú thất thểu đi ra, ông già ngó theo thương hại, kêu chú trở lại :
-    Này, mày không có đến 10 xu sao? Mày là con ai?
Chú bé từ tốn đáp :
-    Dạ cháu là con má cháu.
Ông già nói :
- Vậy là ta hiểu rồi, cháu không có 10 xu, má cháu cũng không có, vậy viết thư để xin chút cháo ăn đỡ đói phải không?
Chú bé gật đầu. Ông già nói tiếp :
-    Được rồi vào đây ông viết giúp cho.
Ông Bou-in nghĩ thầm: mình có hy sinh một chút thời giờ, tốn ít mực, ít giấy thì cũng chẳng ra nghèo. Ông liền lấy bút giấy ra viết: Ba-lê, ngày… tháng… năm… Kính thưa ông.” Rồi ông già đọc lại cho chú bé nghe và bảo muốn xin gì thì nói để ông viết tiếp. Chú bé ấp úng :
-    Dạ không phải ông ạ!
Ông già gạn hỏi :
-    Không phải ông thì bà?
Chú bé run run thưa lại :
-    Dạ cũng không phải bà.
Ông Bou-in thấy bực mình nên cáu gắt nói :
-    Đã không biết ai để gởi mà lại đòi viết thư.
Chú bé lấy hết can đảm thưa lại :
-    Dạ, cháu muốn viết thư cho Mẹ Ma-ri-a .
Ông già cười rộ rồi nghiêm nghị nói :
-  Mày chế nhạo lão gìa này hả? Cút ra khỏi nhà tao ngay!
Chú bé ngoan ngoãn bước ra khỏi cửa, ông già nhìn theo thấy thương hại nên gọi chú trở lại, quan sát kỹ chú bé một lúc, ông hỏi tiếp :
-    Tên cháu là gì?
-    Dạ tên cháu là Gioan.
-    Gio-an gì nữa ?
-    Dạ, Gioan thôi ạ.
-    Nhưng cháu muốn xin gì cùng Đức Mẹ?
-    Dạ cháu muốn thưa với Ngài là má cháu đã ngủ từ 4 giờ chiều hôm qua, hai tay để trên ngực, người lạnh ngắt, cháu không làm sao đánh thức má cháu dậy được!
Nghe đến đó ông già hiểu ngay là mẹ em đã chết vì đói, ông rươm rướm nước mắt và nghĩ thầm: mình chẳng thiếu của ăn, còn mẹ con chú này thì lại chết đói! Ông già ôm ghì lấy chú bé vào lòng, và ôn tồn nói:
-    Từ nay ông sẽ là ba của cháu.
Vậy một bức thư không được gởi đi, những đã có hiệu quả qua cụ già biết thương người, và Mẹ trên trời đã dùng cụ để chăm sóc cậu bé Gioan.
Cụ già này đã thực thi lời thánh Tông Đồ dạy: “Không ai trong chúng ta sống cho chính mình, cũng như không ai chết cho chính mình. Vậy dù sống dù chết, chúng ta vẫn thuộc về Chúa. Cụ già này đã không xét đoán chú Gioan, cũng không khinh dể chú này. Bởi vì mọi người sẽ phải trả lẽ trước Tòa Chúa (x Rm 14,7-10: Bài đọc năm lẻ).
Có sống Đạo ít nhất noi gương cụ già này mới có thể nói: “Tôi vững vàng tin tưởng sẽ được thấy ân lộc Chúa ban, trong cõi đất dành cho kẻ sống” (Tv 27/26,13: ĐC năm lẻ).
THUỘC LÒNG
C Chúa luôn gìn giữ tôi chẳng khác gì con ngươi mắt Ngài (Dnl 32,10).
C Dầu cha mẹ có bỏ con đi nữa, thì vẫn còn có Chúa đón nhận con (Tv 27/26,10)
 
 
Linh mục GIUSE ĐINH QUANG THỊNH 

Gửi phản hồi - thắc mắc

Tên của bạn *
Địa chỉ
Email *
Điện thoại
   
Câu hỏi

Lên đầu trang
Các bài giảng khác: