BÀI GIẢNG
MẦU
NHIỆM ĐỨC MARIA
A. LỊCH SỬ LỄ MÂN CÔI
Phần lịch sử này dựa trên các tài liệu :
-
M.Gorce
La Religion Poétique Populaire du Moyer Age. Trong tập Histoire Général des
religions tome Christiamisme nedieval Aritide Quillet, Paris 1947 tr 51-71.
-
Marcel
Mahé aux sources de notre Rosaire suppléments de la vie Spiritualle 1951 tr
101-120
1/ TẠI SAO KINH KÍNH MỪNG LẠI GỌI LÀ
KINH MÂN CÔI (HOA HỒNG) ?
Từ thế kỷ thứ 11 về trước, Hội
Thánh không đọc kinh Kính Mừng. Kinh Kính Mừng phát sinh từ lòng đạo đức bình
dân của quần chúng. Thực vậy, từ thế kỷ thứ 11 đến 13, những nhà quý phái đua
nhau xây những đại Giáo Đường nguy nga, các hiền triết, các nhà thần học đua
nhau xuất bản những pho sách về thần học, về đạo đức dày cộm. Tất cả những hiện
tượng ấy nói lên phần nào lòng mến, lòng đạo đức của Hội Thánh trong thời kỳ
hoàng kim. Thế thì giới bình dân họ phải làm gì ? Họ nảy sinh ra một sáng kiến là
thi nhau hái hoa hồng kết thành những vòng hoa, cùng với những bài thi ca bình
dân nói lên niềm vui của ơn cứu độ. Nếu việc hái hoa hồng trải qua những khó khăn vì gai góc,
nhưng lại nói lên loài hoa biểu tượng cho một niềm vui dạt dào và cao thượng,
thì đó không phải là tâm tình đạo đức của người bình dân biểu tượng cho ơn cứu
độ trải qua thập giá đến vinh quang, mà Hội Thánh đang trong thời kỳ phồn thịnh
đó hay sao? Người ta còn tìm thấy một vài kinh cổ nói lên niềm vui hoa hồng của
ơn cứu độ.
Thí dụ:
C Lời kinh của cộng đoàn Avignon:
“Hoa chóng tàn, vui trần thế mau
qua,
Ta hãy hái hoa dâng Mẹ hiền,
Để mai sau được hưởng phúc vinh,
Hoa hồng thiêng chẳng khi tàn,
Mẹ là bông hoa là vườn hồng,
Mẹ là đấng nơi đó ngự trị,
Sự dịu dàng vượt trên mọi dịu
dàng,
Mẹ là đấng nơi đó bừng nở,
Sắc đẹp chẳng tàn phai”.
C
Bài dân ca Đức :
“Người ta gọi Mẹ là vườn hồng,
thật là chí lý.
Tất cả các con hãy đến cùng Mẹ, Mẹ
sẽ nhận lời các con”.
Như vậy truyền thống dâng hoa đã
khởi đi từ lòng đạo đức của giới bình dân vào những thế kỷ này…
Câu chuyện truyền khẩu về anh lái
buôn có lòng sùng kính Đức Mẹ, anh muốn được cùng với mọi người hái hoa kết
tràng dâng Mẹ, nhưng vì công việc làm ăn không cho phép anh thực hiện, anh liền
nghĩ ra một cách làm bù trừ, là thay vì hái hoa đưa đến Nhà Thờ dâng Mẹ, nói
lên niềm vui cứu độ loài người, nhờ Đức Mẹ khởi đầu từ biến cố Truyền Tin, anh
đã đọc những lời của sứ thần Gabriel trong ngày Truyền Tin cho Đức Mẹ, cũng là
ngày khơi mào ơn cứu độ cho cả nhân loại. Anh nghĩ rằng mỗi lần anh đọc những
lời ấy cũng có giá trị như những bông hồng dâng lên Mẹ. Sáng kiến ấy dần dần đã
lan rộng tới nhiều người, không những đối với những người bận rộn, không đến
Thánh Đường được, mà còn cả với những người có điều kiện hái hoa hồng dâng Mẹ.
Vì dầu sao việc đọc những lời đó vẫn mang nội dung niềm vui sâu sắc hơn là cử
chỉ bên ngoài hái hoa hồng dâng Mẹ.
Đó là gốc tích người ta gọi kinh
Kính Mừng là kinh Mân Côi.
2/ TẠI SAO TRÀNG HẠT LẠI GỒM NĂM NGẮM ?
Cho đến nay người ta vẫn chưa hiểu
gốc tích của tràng hạt từ những tôn giáo nào ảnh hưởng qua, bởi vì không phải
chỉ có Công Giáo có tràng hạt, mà cả một số tôn giáo khác nữa. Tuy nhiên, con
số năm ngắm được tương ứng với năm biến cố lớn trong chương trình cứu độ của
Thiên Chúa: Truyền Tin, Giáng Sinh, Phục Sinh, Thăng Thiên, Mẹ Lên Trời.
3/ TẠI SAO LẠI CÓ TRÀNG HẠT MƯỜI LĂM
NGẮM ?
Thánh Vinh Sơn Ferrier Dòng Đaminh
(1350-1419) đã soạn ra ngắm Đàng Thánh Giá thứ 15 để bổ túc cho 14 chặng Đàng
Thánh Gía, vì ơn cứu độ của con người không kết thúc một cách bi đát ở mồ lạnh,
nhưng phải đạt tới sống lại vinh quang để lên Trời. Nỗ lực của thánh Vinh Sơn
Ferrier dường như đã không thành công, vì không được phổ biến sâu rộng trong
Giáo Hội, thì mười lăm ngắm khi đọc kinh Mân Côi có thể diễn tả được niềm vui
này. Bởi vì bản chất của kinh Mân Côi nói lên niềm vui ơn cứu độ qua chữ “KAIRE”
mà sứ thần chào Đức Ma-ri-a.
Để nói trọn niềm vui ơn cứu độ ấy,
người ta thấy không thể giản lược vào năm lễ lớn của năm ngắm đã có sẵn. Cho
nên Đan Viện Sallay ở thế kỷ 13 lại nghĩ đến nhiều biến cố khác trong chương
trình cứu độ, để tương xứng con số 15: Sinh Nhật Đức Mẹ, cuộc đời Đức Mẹ,
Truyền Tin cho Đức Mẹ, Đức Mẹ thụ thai, Đức Mẹ Thăm Viếng, Đức Mẹ sinh Chúa
Giê-su, Ba vua đến triều bái Hài Nhi, Đức Mẹ dâng Chúa trong Đền Thờ, Đức Mẹ
tìm thấy Chúa Giê-su trong Đền Thờ, dấu lạ Cana có Mẹ can thiệp, Đức Mẹ đứng
dưới chân thập giá, Phục Sinh, Thăng Thiên, Hiện Xuống, Đức Mẹ lên Trời.
4/ TẠI SAO LẠI CÓ BA MÙA VUI – THƯƠNG –
MỪNG ?
Cách chia này do Alain de la Roche
(1428-1475) và được đức Pio V chấp nhận và cho công bố ngày 17-9-1569.
Như đã nói kinh Kính Mừng là niềm
vui ơn cứu độ do Đức Maria khai mào từ lúc Ngôi Lời nhập thể (Vui) ; Tử Nạn
(Thương) ; đến sống lại vinh quang (Mừng).
Ta để ý dù đọc ba Mùa với mầu
nhiệm khác nhau, nhưng trong mỗi Mùa, kinh Kính Mừng đã không lấy một phần
tương ứng với mầu nhiệm Thương và Mừng, mà chỉ lấy một đoạn Thánh Kinh tương
ứng với mùa Vui (mầu nhiệm Nhập Thể). Điều này nhấn mạnh ta phải tin rằng, muốn được hưởng niềm vui ơn cứu độ, con
người phải sống mầu nhiệm Ngôi Lời Nhập Thể. Bởi vì nếu ta chỉ nói Chúa
Giê-su đã chết và Phục Sinh để cứu ta, thì đó mới chỉ là nặng phần pháp lý, cho
dù Chúa Giê-su đã chết và Phục Sinh, mà chúng ta không để cho Lời Chúa nhập
thể, hay chúng ta không sống Lời Chúa, thì việc chết và Phục Sinh của Chúa
Giê-su đâu có cứu nổi chúng ta!
Ví dụ: Một
người cha cho con đầy đủ phương tiện: xe, tiền, để con học thành bác sĩ. Thế
nhưng người con đã lạm dụng qua mặt cha kết băng đảng chơi xì-ke, ma túy, rồi
sinh trộm cắp giết người. Cuối cùng nó bị bắt lãnh án tử. Nếu người cha không
hết lòng thương con, ông sẽ nói: “Mặc xác nó, cho nó chết!” Nhưng nếu ông thương
con, ông nhận tội trước pháp luật bằng lòng lấy mạng ông đền cho con được sống
tự do. Nếu người con nhận ra tình thương của cha, nó hối cải và sống như cha nó
muốn, thì nó được cứu ; trái lại, nếu nó được tự do lại trở về đường tội lỗi
như trước, chắc chắn pháp luật không tha chết cho nó. Thế thì cái chết của
người cha đã trở nên vô ích đối với nó!
Đức Giáo hoàng Gioan Phao-lô II
trong Tông Thư đề ngày 16-10-2002 gởi các tín hữu về “Mầu Nhiệm Rất Thánh Mân
Côi” có thêm năm ngắm Sự Sáng, nhằm suy niệm năm biến cố lớn trong chương trình
cứu chuộc loài người:
- Một là Đức Giê-su chịu
phép rửa tại sông Gio-đan (x Mt 3,13-17).
- Hai là tiệc cưới tại Cana (x Ga 2,1-11).
- Ba là công bố Tin Mừng
kêu gọi sám hối (x Mc 1,15).
- Bốn là Đức Giê-su Hiển
Dung (x Mt 17,1-8).
-
Năm là Đức Giê-su lập Bí tích Thánh Thể (x Lc 22,14-20).
5/ TẠI SAO ĐỌC 15O KINH KÍNH MỪNG?
Từ trước Công Đồng Vat.II chỉ có
hàng giáo sĩ mới đọc Kinh Phụng Vụ gồm 150 Thánh vịnh, giáo dân không được tham
dự giờ kinh này. Mà ta biết mỗi câu Tv đều nhắc đến một biến cố cứu độ trong
lịch sử. Thí dụ ta đọc Tv 51/50,7: “Từ
trong lòng mẹ tôi đã là kẻ bất lương”, thì chúng ta liên tưởng ngay đến con
cái của bà Thamar tranh nhau quyền trưởng nam ngay trong lòng mẹ ( x St 38) ;
ta đọc Tv 19/18,2: “Trời xanh tường thuật vinh quang Thiên Chúa…”, đương nhiên
ta nhớ đến cuộc tạo dựng muôn vật kỳ diệu của Thiên Chúa (x St 1).
Như thế, đọc và suy gẫm hết 150 Tv thì cũng có nghĩa là đọc và suy gẫm toàn bộ
Thánh Kinh, suy gẫm toàn bộ biến cố mạc khải.
Vậy người giáo dân không có điều
kiện đọc Kinh Phụng Vụ, thì người ta đọc 150 kinh Kính Mừng để nói: Niềm vui ơn
cứu độ do Đức Maria khai mào đã được trải rộng toàn bộ kho tàng mạc khải. Nhưng nay trình độ văn hóa loài người đa số
không còn mù chữ, việc in ấn sách vở lại thuận tiện, nên Hội Thánh muốn nâng
cao Đức Tin, lòng Mến của người tín hữu cũng là con Mẹ Maria, đã khuyến khích
cổ võ và thiết tha mời gọi mọi tín hữu hãy cùng với hàng giáo sĩ cầu nguyện
bằng Kinh Phụng Vụ. Giáo huấn của Công Đồng Vat.II, trong Hiến Chế Phụng Vụ số
84 dạy: “Kinh Phụng Vụ được lập ra để thánh hiến trọn ngày đêm, bằng lời ngợi khen Thiên Chúa. Các Kitô
hữu hãy hợp cùng Linh mục cầu nguyện theo thể thức đã được chuẩn nhận, thì thực
là tiếng của chính Hiền Thê nói với Đấng
Phu Quân của mình, và hơn thế nữa còn là lời cầu nguyện của Chúa Kitô và
Thân Thể Người dâng lên Chúa Cha”.
Như thế ta có thể nói rằng: Giáo
dân khi có điều kiện cầu nguyện bằng Kinh Phụng Vụ mà lại bỏ đi lần Hạt Mân
Côi, thì chắc chắn càng lần Hạt nhiều, thì Mẹ Maria càng “nhăn mặt” ; hoặc nếu
chủ chăn không tạo điều kiện cho giáo dân cùng dự Kinh Phụng Vụ với mình, thì
chắc chắn Chúa và Mẹ sẽ hỏi: “Giáo dân của con đâu?” Trừ khi giáo dân và hàng
giáo sĩ không có điều kiện để cùng chung lời cầu này.
6/ THÁNH ĐAMINH VỚI KINH KÍNH MỪNG.
Người ta vẫn truyền tụng phép lạ Đức
Mẹ trao tràng hạt cho thánh Đaminh cổ võ, nhưng thực ra phép lạ này có lẽ phát
xuất từ lòng sùng kính và cổ võ kinh Mân Côi hơn là chứng tích lịch sử. Về
phương diện lịch sử thì không ai chối cãi thánh Đaminh có công lớn trong việc
cổ võ lòng sùng kính kinh Mân Côi, bởi vì vào thế kỷ 13 trước hiểm họa của bè
rối Albigeois, thì việc canh tân và cổ võ lòng sùng kính kinh Mân Côi như một liều thuốc chữa trị bệnh thời đại. Ta
biết bè rối Albigeois chủ trương thuyết Nhị Nguyên, nghĩa là trong vũ trụ có hai
nguyên nhân: sự ác và sự thiện luôn luôn đấu tranh và dày vò con người, con
người không còn tự do để chọn lựa, và người ta thấy cuộc đời là bao trùm một sự
bi đát, bởi vì ai cũng cảm thấy thế, kể cả thánh Phao-lô: “Điều tốt tôi muốn, tôi không làm, tôi cứ làm điều tôi ghét” (Rm
7,19).
Vì thế thánh Đaminh lợi dụng những
buổi tập họp của dân chúng kết hoa dâng Đức Mẹ, hát những bài ca bình dân, thì ngài
đã biến những buổi vui này thành những
buổi suy niệm Lời Chúa. Bởi vì trong lịch sử từ những điểm của 15 ngắm Vui
– Thương – Mừng, 150 kinh đều đã hướng lòng người giáo dân về toàn bộ mạc khải,
cho nên thánh Đaminh đã xen vào những
buổi cầu nguyện dâng hoa này bằng những giờ đào sâu Thánh Kinh để hiểu rõ về ý
định của Thiên Chúa, nhất là đào sâu
mầu nhiệm Nhập Thể: Ngôi Hai là thuần Thần đã nhập thể dưới dạng một con người,
nhờ vật chất để nâng cao con người từ cảnh tầm thường vươn đến niềm vui ơn cứu
độ, đó là liều thuốc chữa trị tư tưởng của bè rối đang lan truyền khắp nơi. Nếu
thánh Đaminh cổ võ sự sùng kính Đức Mẹ trong lãnh vực này, thì ta còn phải hiểu
ngài đã có ý nhắc đến Đức Mẹ là Mẹ của Hội Thánh, chắc chắn Mẹ bầu cử và dẫn
dắt con cái mình khỏi rơi vào lạc giáo mà đi vào giáo lý truyền thống của Hội
Thánh được trình bày qua những buổi suy niệm Lời Chúa.
Nhất là những người vẫn đọc kinh Kính Mừng, họ tin rằng ngày nay trên trần thế
chào mừng Đức Mẹ bằng lời “Kính Mừng Maria”, thì mai sau đến cửa Trời họ cũng được Đức Mẹ chào mừng họ: “Kaire”
(Vui lên) và dẫn họ vào Vườn Hồng Thiên Quốc. Từ đó họ phát sinh lời cầu
nguyện hướng về giờ lâm tử: “Thánh Maria Đức Mẹ Chúa Trời, cầu cho chúng
con là kẻ có tội khi nay và trong giờ lâm
tử”.
B. TIẾN TRÌNH TRONG PHỤNG VỤ VỀ NGÀY LỄ MẸ MÂN CÔI
§ Đức Giáo hoàng Pio V ấn định mừng
lễ Mân Côi vào ngày 7 tháng 10 năm 1571 để nhớ ơn Đức Mẹ đã ủng hộ đoàn quân của Giáo Hội thắng
quân Hồi Giáo của Thổ Nhĩ Kỳ tại vịnh Lepante.
§ Đức Giáo hoàng Grégorio XIII lại
giới hạn chỉ cho một số Nhà Thờ trong Giáo Hội kính lễ Mẹ Mân Côi hằng năm bắt
đầu từ năm 1716.
§ Đức Giáo hoàng Clémente XI lại
buộc tất cả các Nhà Thờ trong Giáo Hội mừng lễ Mân Côi.
§ Đức Giáo hoàng Lêo XIII đặt lễ Đức
Mẹ Mân Côi là lễ Kính.
§ Từ Công Đồng Vat.II, Giáo Hội đặt
lễ Mân Côi là lễ Nhớ.
Ta biết lễ Chúa nhật là trung tâm Phụng
Vụ, là đỉnh cao ơn cứu độ, còn các lễ khác diễn tả về mầu nhiệm ơn cứu độ nhiều hay ít thì được
phân chia theo cấp bậc: lễ nào diễn tả nhiều nhất thì được gọi là lễ Trọng ; lễ
nào kém hơn thì được gọi là lễ Kính ; và lễ nào diễn tả ít thì được gọi là lễ
Nhớ, quen gọi là lễ bậc nhất, bậc nhì và bậc ba. Ngày nay toàn thể Giáo Hội địa
phương trong mỗi quốc gia đều mừng Đức Mẹ Mân Côi là lễ Nhớ, lễ bậc ba, trừ có
Giáo Hội Việt Nam thì xin được đặc cách gọi là lễ Trọng, được phép mừng vào
ngày Chúa nhật!
C. SỨ MỆNH CỦA ĐỨC MARIA ĐƯỢC TIỀM ẨN TRONG CỰU ƯỚC
Ta biết “giá trị của Cựu Ước được thể hiện
trong Tân Ước và giá trị của Tân Ước đã tiềm ẩn trong Cựu Ước” (Hiến
Chế Mạc Khải số 16). Bởi thế, sứ mệnh của Đức Maria đã được tiềm ẩn trong Cựu
Ước như sau :
1- Mẹ Maria là Eva mới
Eva
thuở xưa vì không vâng Lời Chúa, nên gieo sự chết vào dòng giống mình ; trái
lại, Đức Maria tuyệt đối vâng Lời Chúa, để quyền năng Lời Chúa thực hiện nơi Mẹ
điều Mẹ đã được nghe (x Lc 1,38), thì Mẹ đã cởi nút thắt cổ do bà Eva xưa cột
nơi dòng giống, để cho những ai được sinh lại trong Chúa Giê-su làm con Chúa
cũng là con Đức Mẹ, đều được được thông hiệp vào sự sống của Thiên Chúa (x Ga
6,57). Như vậy, thuở xưa Eva ăn quả Chúa
cấm thì thần chết ập đến (x St 3,24), thì nay ai ăn Quả lòng Bà (x Lc 1,42: Bản dịch NTT), tức là Con Đức Maria, thì
được sự sống dồi dào (x Ga 10,10).
2- Mẹ Maria là bà
Đêbôrah mới
Yabin, vua Canaan, sai tướng
Sisơra kéo quân đánh Israel.
Nữ ngôn sứ Đêbôrah hướng dẫn Baraq đem quân chống lại Sisơra. Ông Baraq phải
mời bà Đêbôrah đi theo làm cố vấn cho ông, nhờ đó Baraq đánh tan được quân của
Sisơra cách oai hùng (x Qa 4,1-16). Đức Maria có mặt từ khởi đầu đời công khai
của Đức Giê-su tại tiệc cưới Cana (x Ga 2),
cho tới khi Mẹ đứng dưới chân thập giá trên đồi Sọ nhìn Con bị chết treo trong
cảnh đau thương! (x Ga 19,25t) Rõ ràng Mẹ Maria theo Con trong suốt cuộc đời
công khai để làm cố vấn quan trọng hơn bà Đêbôrah làm cố vấn cho ông Baraq đánh
thắng quân Sisơra.
3- Mẹ Maria là Yael mới
Quân của Sisơra bị đánh tan, tướng
Sisơra chạy trốn vào nhà bà Yael xin bà lấy chăn phủ lên ông hòng tránh mặt ông
Baraq. Bà Yael cho hắn ăn uống xong, đoạn bà lấy chăn trùm cho hắn ngủ, rồi bà
rón rén nhổ cọc lều,dùng búa tạ đóng lên mang tai Sisơra, ghim đầu hắn xuống
đất! Thế là bà Yael đã diệt tận gốc rễ kẻ chống lại Israel (x Qa 4,17-22). Chiến thắng
ấy thua xa bà Maria đạp nát đầu con rắn đã tấn công tổ tiên loài người (x St
3,15: Bản dịch Phổ Thông) để giải phóng cho loài người thoát tay satan, thoát
án tử.
4- Mẹ Maria diễn tả người
phụ nữ cắt đầu tên Shêba, kẻ chống lại vua Đavid
Tên Shêba dấy lên tập họp quân
chống lại vua Đavid, vua cho tướng Yoab đem quân truy nã Shêba, hắn chạy trốn
vào thành Abel – Bet – Maakah. Tướng Yoab cho quân bao vây thành, một bà trong
thành lập mưu cắt đầu Shêba quăng ra ngoài thành cho ông Yoab, vì bà không muốn
chỉ vì một kẻ có tội chống lại vua mà cả thành bị tru diệt (x 2 Sm 20). Thua xa
Con Đức Maria bị giết để cho loài người được sống (x Ga 11,50)
5- Mẹ Maria là bà
Yudita mới
Hôlôphernê là tướng quân của vua Babylon, ông được lệnh đem
quân vây hãm tấn công trại dân Do Thái. Toàn dân, binh sĩ, cả các tướng lãnh Do
Thái đều lâm vào ngõ bí muốn đầu hàng, nhưng bà Yudita không thuận,vì làm như thế dân Chúa vẫn bị diệt và Chúa mất danh
dự! Do đó bà quyết âm ăn chay cầu nguyện tha thiết xin Chúa cứu dân vì danh dự
của Chúa (x Tv 143/142,11).
Thế rồi vào một đêm kia, bà trang
điểm lộng lẫy, âm thầm tiến vào trại quân của tướng Hôlôphernê, ông mê đắm sắc
đẹp của bà, bà lợi dụng phục rượu ông uống cho say mèm, rồi cắt đầu Hôlôphernê
đem về trại Do Thái trong tiếng reo mừng của toàn dân! (x Gd 10t). Thua xa Chúa
yêu sự thánh thiện của Mẹ Maria, như lời ông Platon nói: “Sắc đẹp là vẻ huy
hoàng của sự thánh thiện”, nên Mẹ được giữ chức Trạng Sư để bầu cử cho con cái
Mẹ thoát tay tử thần.
6- Mẹ Maria là bà
Esther mới
Do mưu mô của tướng Aman mà vua
Assurêus đã ra sắc lệnh diệt toàn dân Do Thái. Nhưng Esther người gốc Do Thái
được vua Assurêus cưới làm vợ thấy dân bị án tru diệt, bà đã ăn
chay cầu nguyện, rồi làm những bữa cơm
thịnh soạn mời vua cùng với tướng Aman dùng. Sau bữa ăn cuối cùng, nhà vua hứa
với Esther xin gì cũng cho, dù là nửa nước! Lúc ấy Esther thưa: “Xin vua đừng nuôi ong trong tay áo”. Vua
hỏi: “Ai?” Esther chỉ ngay vào Aman,
thế là vua ra lệnh treo cổ Aman lên trụ cao do chính hắn đã trồng hòng treo cổ
Mardoke chú của Esther. Vua còn cho phép người Do Thái được quyền chống lại
những ai tấn công mình.Thế là dân Do Thái tiêu diệt hết lính của Aman, giải
phóng cho toàn dân (x sách Es). Thua xa Đức Maria là Hiền Thê của Thiên Chúa,
Mẹ có công nuôi Con Thiên Chúa, Vua trời đất suốt 33 năm, nên chắc chắn Chúa
nhận lời cầu của Mẹ để ban Thánh Thần cho Hội Thánh lên đường rao giảng Tin
Mừng, giải thoát mọi người thoát ách nô lệ satan (x Cv 1,14t).
7- Mẹ Maria là bà Rêbêca
mới
Bà Rêbêca sinh đôi Esau và
Yacob, nhưng vì Esau đã cướp quyền
trưởng nam của Yacob, nên bà Rêbêca lập mưu lấy áo của Esau mặc cho Yacob, để
cho chồng bà là Ysaac tưởng lầm là Esau vì ông bị mù, mà chúc phúc cho Yacob (x
St 25.27). Thế thì Mẹ Maria lấy Lời Chúa trước đã ban cho dân Do Thái như chiếc
áo che chở họ mà mặc cho người Công Giáo, là con trưởng của Thiên Chúa để được
hưởng phúc lành.
8- Mẹ Maria là bà góa
Sarepta mới
Bà góa Sarepta nghèo khó, chỉ có
một người con, và hai mẹ con còn duy nhất
một chén bột định làm bánh ăn rồi chờ chết, nhưng khi gặp ngôn sứ Êlya,
bà đã sẵn sàng nhường bánh cho ông, từ bấy giờ hũ bột nhà bà không vơi. Khi con
bà chết, ngôn sứ Êlya cầu nguyện cho em được sống lại (x 1 V 17). Công phúc của
bà góa Sarepta vẫn thua công đức bà góa Maria, vì Đức Maria đã nuôi Con Thiên
Chúa 33 năm. Ta cũng là con của Mẹ, thì dù ta có chết vì phạm tội, chắc chắn
Chúa cũng cho ta được sống vì công đức của Mẹ Maria đã nuôi Con Thiên Chúa .
9- Mẹ Maria là Bà Lớn
thành Shunem mới
Ngôn sứ Êlysa mỗi lần đi qua nhà
bà Lớn thành Shunem đều được bà mời vào trú ngụ và được bà phục vụ. Ngôn sứ
Êlysa đã cho bà có con trong tuổi già. Khi con bà qua đời, bà chạy lên núi ôm
chân ngôn sứ bắt vạ, ngôn sứ đến nằm trên xác em bé cầu nguyện, nhờ vậy em đã
được hồi sinh (x 2 V 4). Vẫn thua xa Đức Maria chính là Bà Lớn vì là Mẹ Thiên
Chúa. Bà Lớn Maria đã nuôi Con Thiên Chúa suốt 33 năm, chúng ta cũng là con Mẹ Maria, dù có chết vì tội đã phạm, Đức
Giê-su cũng tự ý cho ta được sống như Ngài đã tự ý cứu con bà góa thành Naim
gần thành Shunem được sống lại (x Lc 7,11-17).
10- Mẹ Maria là tấm
lông chiên mới của Hội Thánh
Ông Ghêđêôn trước khi xuất trận đã
xin Chúa một dấu chỉ: ông phơi tấm lông chiên ở ngoài sân, nếu sáng hôm sau tấm
lông chiên đẫm ướt sương, thì đó là dấu Chúa ủng hộ ông xuất quân ; rồi ông lại
xin Chúa thêm một dấu chỉ: ông lại đưa tấm lông chiên ra phơi ngoài sân, tấm
lông chiên khô ráo, còn sân thì đẫm sương, thì đó là dấu chỉ Chúa ủng hộ ông
chiến thắng (x Tp 6-7).
Theo hai thánh Ambrosio và Ephrem
cắt nghĩa:
- Lần
I: Sương xuống đẫm ướt tấm lông chiên là Lời Chúa xuống trên Đức Maria trong
ngày Truyền Tin (x Lc 1,35).
- Lần
II: Sương xuống ướt đẫm đất, còn tấm lông chiên thì khô ráo: Thánh Thần Chúa
ban Lời xuống trên Hội Thánh (x Cv 2).
Nhờ Mẹ suy đi nghĩ lại Lời Chúa
trong lòng (x Lc 2,19.51b-52), cũng như Lời Chúa được ghi trên tấm xương thịt
và linh hồn của người Ki-tô hữu, mà chúng ta được toàn thắng sự dữ (x 2Cr
3,2-3).
11- Đức Mẹ là Cây Sự
Sống
Thực vậy, lời bà Êlysabeth chúc
tụng Mẹ Maria: “Trong nữ giới có người là
diễm phúc! Và đáng chúc tụng thay quả lòng
người” (Lc 1,42: Bản dịch NTT). “Quả lòng Bà Maria” chính là Chúa Giê-su,
Đấng là sự sống, thì Mẹ Maria phải là Cây Sự Sống. Xưa kia Adam, Eva sau khi
phạm tội, Chúa sai thiên thần cầm gươm hỏa hào chớp chớp để canh giữ lối vào cây
sự sống (St 3,24). Vào thời Tân Ước, khi
Đức Giêsu bị treo trên thập giá, Ngài trao môn đệ cho Mẹ Maria (x Ga
19,25-27), để ai đến với Mẹ, thì được ăn “Quả lòng Bà” (rước Lễ). “Quả lòng
Bà” là Sự Sống của Thiên Chúa (x Ga 6,57), thì Cây sinh ra “Quả Sự Sống”, cũng
gọi là “Cây Sự Sống”.
12- Đức Mẹ đích thực là
Hòm Bia Thiên Chúa
Xưa kia vua Đavid đã rước Hòm Bia
Thiên Chúa về cung điện của mình, trên đường đi ông đã đưa Hòm Bia vào tạm nghỉ
tại nhà ông Obededom ba tháng, nhà này được Chúa chúc phúc (2Sm 6,1-12), thì
Chúa Giê-su là Ngôi Lời của Thiên Chúa, trước khi được rước về Cung Điện trên
Trời, Ngôi Lời đã được đặt trong cung lòng Đức Maria là Đền Thờ đích thực của
Thiên Chúa suốt 33 năm, thì cả Gia Đình của Mẹ là Hội Thánh được Thiên Chúa cứu
độ (Lc 1,39-56).
Với 12 điểm sáng chói trên, Mẹ đã
được Thiên Chúa ban để chiếu sáng vào Hội Thánh. Đó là lý do Chúa cho ông Gioan
nhìn thấy thị kiến người nữ đội triều thiên mười hai ngôi sao (Kh 12,1).
D. ĐỨC MARIA TRONG THỜI TÂN ƯỚC
1/ MẸ LÀ MẪU GƯƠNG CHO CON CÁI VÂNG LỜI CHÚA
Tiếng Xin Vâng của Đức Maria trong
ngày Truyền Tin thật chẳng có gì khó khăn, bởi vì ngày ấy Mẹ được chúc: “Đầy ân phúc” (Lc 1,28) ; Mẹ được đắc
sủng nơi Thiên Chúa (Lc 1,30) ; Mẹ được sinh Con đặt tên là Giêsu, là Con Đấng
Tối Cao (Lc 1,31-32) ; Con Mẹ làm Vua tái lập triều đại Đavid. Mẹ được cả uy
quyền Đấng Toàn Năng bảo đảm ban những ơn phúc ấy, cho nên Mẹ cũng sẵn sàng
thưa: “Xin Chúa làm cho con điều Chúa nói”
(Lc 1,38) ; khi Mẹ đến thăm chị Êlysabeth, người chị họ, được bà này thốt lên
lời tán dương: “Trong nữ giới, em là
người có phúc” (Lc 1,42a). Chính vì những lý do trên mà Đúc Mẹ thêm tin tưởng
hân hoan nói lên lời tạ ơn Chúa: “Này từ
đây mọi đời sẽ khen tôi có phúc” (Lc 1,48b).
Thế nhưng sau đó Mẹ đã gặp những
cơn thử thách ập đến :
- Ông
Giuse, bạn trăm năm của Mẹ định tâm lìa bỏ âm thầm trốn đi (Mt 1,19).
- Ngày
sinh Con, không tìm được nơi xứng đáng, phải đành đặt Con trong máng cỏ nơi
hang bò lừa (Lc 2,7).
- Ông
Simêon nói tiên tri: “Trẻ này làm cho
nhiều người chỗi dậy,nhưng cũng làm cho lắm kẻ bổ nhào, một mũi gươm đâm thâu
lòng bà” (Lc 2,34-35).
- Vua
Hê-rô-đê ra lệnh truy nã giết Hài Nhi Giêsu, Con Mẹ, khiến ông Giuse đang đêm
phải đưa hai Mẹ Con trốn sang Ai Cập (Mt 2,13t).
- Chua
xót nhất là ngày Thứ Sáu Tuần Thánh, Mẹ đứng dưới chân thập giá nhìn Con, thì
xem ra tất cả những Lời Chúa hứa trong ngày Truyền Tin chỉ là những dối gạt ; Con
thật của Mẹ là Đức Giê-su bị người ta loại trừ, và Mẹ nhận lại Gioan là con
người tội lỗi (Ga 19,25-27).
Vậy tiếng Xin Vâng của Mẹ được
đánh giá cao vì suốt cuộc đời Mẹ sinh dưỡng Chúa Giê-su chỉ toàn gặp những
nghịch cảnh trái với Lời Chúa hứa. Nhưng những thử thách đó không quật ngã được
Mẹ. Mẹ vẫn ĐỨNG nhìn Con treo trên thập giá (Ga 19,25). Mẹ đã trở thành bánh
lái và cũng là hoa tiêu điều khiển con tầu Hội Thánh đang gặp sóng gió kinh
hoàng nhất.
Xưa kia Chúa chỉ cho ông Noe đóng
tầu tỉ mỉ từng chi tiết, thế nhưng không thấy Chúa dạy ông làm bánh lái. Tầu mà
không có bánh lái làm sao cập bến! (St 6,14-16). Tầu ấy chính là Hội Thánh, và
như thế vào thời Tân Ước Chúa mới lắp “bánh lái Maria” vào. Để nhờ bánh lái này
mà Hội Thánh được cập bến Thiên Đàng!
Hình ảnh Đức Maria đứng dưới chân
Thánh Giá còn cho ta nhận ra Mẹ là một dũng tướng đang đứng chỉ huy mặt trận ác
liệt giữa thiện và ác, Mẹ tin thiện sẽ thắng ác!
2/ LỜI NÓI MẸ MARIA LÀM HOÀN TẤT CÔNG TRÌNH TẠO DỰNG
VÀ CỨU CHUỘC LOÀI NGƯỜI
Tân Ước ghi lại sáu lần Đức Maria
nói, nhưng năm lần Mẹ nói với Chúa và nói về Chúa :
a/
Mẹ nói với thiên thần: “Việc đó
xảy đó thế nào vì tôi không ăn ở với người nam” (Lc 1,34).
b/
Mẹ thưa với thiên thần: “Tôi là
nữ tỳ của Chúa, xin Chúa làm cho tôi điều Chúa nói” (Lc 1,38).
c/
Mẹ cầu nguyện rất dài tại nhà bà Êlysabeth, người chị họ (Lc 1,46-55).
d/
Mẹ trách Đức Giê-su trốn ở lại Đền Thờ làm cho cha mẹ đau khổ đi tìm
(Lc 2,48).
e/
Mẹ trình bày với Đức Giê-su trong tiệc cưới Cana:
“Nhà này hết rượu rồi” (Ga 2,3).
f/
Mẹ chỉ nói với loài người duy một
lời trong lần thứ sáu cũng là lần cuối cùng: “Giêsu bảo gì cứ làm theo”
(Ga 2,5)
Ta biết thuở tạo dựng ban đầu,
Thiên Chúa phán sáu lần trong sáu ngày, đặc biệt ngày thứ sáu cũng là lần thứ
sáu, lần cuối cùng, Chúa phán: “Ta hãy tạo
dựng con người giống hình ảnh Ta” (St 1,26). Đó là chỉ tiêu Chúa đặt trước,
chứ thực ra lúc ấy con người mới chỉ là một sinh vật (1Cr 15,45- bản dịch PVGK),
hoặc chỉ là loài thú, vì “thú và người
giống nhau là đều phải chết” (Gv 3,18-19). Chính vì thế con người chưa thể được
nên giống Thiên Chúa, trừ khi người ta
thực hiện lời Mẹ nói lần thứ sáu trong thời Tân Ước: “Giêsu bảo gì cứ làm theo” (Ga 2,5).Và ai thực hiện lời Mẹ
Maria như trên, thì được cùng với Mẹ chung tay với Chúa Giêsu làm hoàn hảo công
trình sáng tạo vạn vật Chúa Cha đã khởi sự thuở ban đầu.
3/ VIỆC PHỤC VỤ CỦA MẸ BÁO TRƯỚC CHƯƠNG TRÌNH CỨU ĐỘ CON
THIÊN CHÚA THỰC HIỆN
Thực vậy, ai cũng tưởng nghĩ Mẹ
đến nhà chị họ Êlysabeth đã mang thai được sáu tháng, thì Mẹ phải ở đó phục vụ trên ba tháng, đợi
khi người chị họ sinh “mẹ tròn con vuông”, rồi Mẹ mới trở về quê. Thế mà tác
giả Luca lại ghi: Mẹ ở nhà chị họ có ba
tháng rồi trở về quê, sau đó Gioan mới sinh ra (Lc 1,56-57). Điều ngạc
nhiên này thật ra ông Luca đã nhận ra dấu chỉ: Đức Maria đã phác họa trước
chương trình cứu độ của Đức Giê-su, Con Mẹ, Ngài đến phục vụ trần gian, đặc
biệt ba năm cuối đời, cuối cùng phải
chết trên thập giá, rồi được an táng trong mộ ba ngày, sau đó Ngài phục sinh về Quê Trời. Từ đó Hội Thánh mới
sinh các Ki-tô hữu.
4/ MẸ DANG RỘNG VÒNG TAY THAM GIA VÀO CHƯƠNG TRÌNH CỨU
CHUỘC CỦA CON MẸ TỪKHỞI
SỰ ĐẾN HOÀN THÀNH
Đó là lý do mà thánh sử Gioan cho
chúng ta thấy Đức Maria chỉ xuất hiện hai lần trong đời công khai của Đức Giêsu
:
-
Lần
I: Mẹ có mặt trong tiệc cưới tại Cana cùng
với Đức Giêsu, Mẹ nói lên nhu cầu của loài người với Con Mẹ: “Nhà này hết rượu rồi” (Ga 2,3) ; đồng
thời Mẹ cũng nhắc cho loài người: “Giêsu
bảo gì cứ làm theo” (Ga 2,5)
-
Lần
II: Khi Đức Giê-su hoàn tất cuộc đời công khai trên thập giá, Mẹ Maria lại hiện
diện và được Đức Giê-su trao phó người môn đệ Gioan cho Mẹ chăm sóc (Ga 19,27).
Vậy Con Thiên Chúa toàn năng còn
cần đến Mẹ Maria cộng tác từ khởi sự cho đến hoàn thành, huống chi chúng ta là
con người hữu hạn lại càng cần phải cậy nhờ Mẹ hằng cứu giúp, đúng với danh
hiệu của Mẹ là “Trạng Sư, Đấng Bảo Trợ, Đấng Phù Trợ, Đấng Trung Gian” (xem
Hiến Chế Hội Thánh số 62). Bởi vì Mẹ vừa là Mẹ Thiên Chúa vừa là Mẹ loài người
(Hiến Chế Hội Thánh số 66).
Chính vì vai trò của Mẹ rất quan
trọng trong chương trình Thiên Chúa cứu độ loài người, nên trong Phụng Vụ của
Hội Thánh có 15 Lễ Kính Đức Mẹ :
1- Lễ Mẹ Thiên Chúa 1-1
2- Lễ Mẹ Dâng Con Vào Đền Thờ 2-2
3- Lễ Mẹ Lộ Đức 11-2.
4- Lễ Truyền Tin 25-3
5- Lễ Mẹ Đi Thăm Viếng 31-5
6- Lễ Mẹ Núi Carmelo 16-7
7- Lễ Cung Hiến Đền Thờ Đức Bà Cả 5-8
8- Lễ Mẹ Lên Trời 15-8.
9- Lễ Trinh Nữ Vương 22-8
10-Lễ Sinh Nhật Đức Mẹ 8-9
11-Lễ Bảy Sự Đau Đớn Đức Mẹ 15-9
12-Lễ Mẹ Mân Côi 7-10
13-Lễ Mẹ Dâng Mình 21-11
14-Lễ Mẹ Vô Nhiễm 8-12
15-Lễ Trái Tim Đức Mẹ (sau lễ Thánh
Tâm).
5/ MẸ LÀ MẪU NGHE LỜI CHÚA ĐỂ ĐỨC TIN LỚN DẦN
Thật vậy, trong cuộc Truyền Tin :
a- Thiên thần chào: “Đầy ân phúc” (Lc
1,28).
b- “Đầy ân phúc” đó là bà Maria được
đắc sủng nơi Thiên Chúa (Lc 1,30).
c- Người sẽ thụ thai, sinh Con, đặt
tên là Giêsu” (Lc 1,31).
d- Đó là Con Đấng Tối Cao (Lc 1,32).
e- Ngài là Vua nối dòng Đavid, triều
đại vô cùng tận (Lc 1,33).
6/ MẸ LÀ MẪU CHO CÁC BÀ MẸ NUÔI CON
Trong Tin Mừng Luca, ông ghi nhận
hai lần Mẹ Maria nghe Lời Chúa giữ kỹ trong lòng, rồi suy đi nghĩ lại, Con Mẹ
lớn lên trong khôn ngoan đầy ân sủng trước mặt Thiên Chúa và người ta (Lc
2,19.51b-52).
Hai lần ông Luca ghi Mẹ suy gẫm
Lời Chúa như vậy làm cho các bà mẹ phải liên tưởng đến hai bầu sữa của người mẹ
nuôi con, không phải mẹ cần ăn cao lương mỹ vị để có sữa nuôi con, mà nhất là
còn cần phải suy đi nghĩ lại Lời Chúa, để dòng sữa của mẹ nuôi con vừa là của
vật chất vừa của thần linh, cho con mình lớn lên khôn ngoan đầy ân sủng. Bởi
vì “người
ta sống không nguyên bởi bánh mà còn bởi mọi Lời miệng Thiên Chúa phán ra”
(Mt 4,4).
7/ MẸ LÀ KHUÔN MẪU CỦA HỘI THÁNH THỜI CÁNH CHUNG
Thiên thần xác nhận Mẹ Maria là một Trinh Nữ (Lc 1,27), để
báo trước những người thuộc về Hội
Thánh, họ phải là những trinh nữ khôn ngoan trữ dầu cầm đèn cháy sáng đón Chàng
Rể vào dự tiệc cưới Nước Trời (Mt 25,1-13).
8/ CHÚA MUỐN MỌI NGƯỜI NÊN THÁNH NHƯ MẸ MARIA
Đức Giê-su nói: “Mẹ tôi và anh em tôi là những người nghe Lời
Chúa và đem ra thực hành” (Lc 8,21).
Con người là loài thụ tạo đầy yếu
đuối, bất xứng, thế mà Chúa lại muốn gọi họ là “Mẹ” của Ngài, vì hai lý do :
a- Người Ki-tô hữu được đưa lên địa
vị cao cả là “Mẹ” Chúa Ki-tô, vì Chúa muốn mọi người phải nên thánh như Mẹ
Maria. Nếu Chúa đòi người ta phải nên hoàn hảo như Cha trên trời (x Mt 5,48),
thì loài người yếu hèn làm sao có thể vươn tới ; còn nên thánh như Mẹ Maria thì
quả là trong tầm tay, vì Mẹ cũng là loài thụ tạo như chúng ta.
b- Mẹ Maria sinh Con Đấng Tối Cao là
Đầu trong Thân Mình Mầu Nhiệm Chúa Kitô, là Hội Thánh, thì khi các Ki-tô hữu là
chứng nhân cho Tin Mừng để thâu họp muôn dân làm môn đệ của Đức Ki-tô, thì họ
là các chi thể trong Thân Mình của Ngài. Như vậy, cả Đức Maria, cả các Ki-tô
hữu mới sinh Thân Thể Mầu Nhiệm Chúa Ki-tô cách vẹn toàn.
9/ MẸ LÀ MẪU CHO HỘI THÁNH CẦU NGUYỆN
Trong sáu lần Đức Maria nói được
Phúc Âm ghi lại, thì chỉ có lần Đức Maria cầu nguyện tại nhà người chị họ dài
nhất, đặc biệt là Mẹ đan kết những câu Lời Chúa thành lời tạ ơn của Mẹ (x Lc
1,46-55). Chính vì vậy, mà Công Đồng Vat.II trong Hiến Chế Mạc Khải số 25, nhắc
nhở cho con cái mình: “Kinh nguyện phải
đi đôi với việc đọc Kinh Thánh, để có sự đối thoại giữa Thiên Chúa và con
người, vì chúng ta ngỏ lời với Thiên Chúa khi cầu nguyện. Chúng ta nghe Ngài nói lúc ta đọc Kinh Thánh”.
Hồng y Newman nói: “Tôi
đọc báo, tôi biết người ta đang làm gì ; tôi đọc Kinh Thánh, tôi biết mình phải
làm gì”.
Trong Hiến Chế Mạc Khải số 25, Hội
Thánh đã nhắc lại lời thánh Giêrônimô: “Ai không biết Thánh Kinh là không biết Chúa
Kitô”
10/ MẸ LUÔN ĐOÁN Ý NGƯỜI KHÁC ĐỂ PHỤC VỤ
Trong Tin Mừng ghi lại hai lần Đức
Maria phục vụ :
§ Đức Maria vừa nghe tin người chị
họ có thai trong tuổi già đã được sáu tháng, mẹ vội vã lên đường tới nhà chị họ
để phục vụ (x Lc 1,39t).
§ Trong tiệc cưới tại Cana, Mẹ thấy chủ tiệc đang lo lắng vì thiếu rượu đãi
khách, nên Mẹ tự ý nói với Giê-su, Con Mẹ: “Nhà
này hết rượu” (Ga 2,3). Như thế Mẹ không van xin mà trình bày nhu cầu của
loài người, và với uy quyền của người Mẹ, thì đó trở thành lời ra lệnh cho Con,
và Đức Giê-su đã biến nước lã thành rượu ngon hơn, mọi người được thỏa thuê (x
Ga 2,1-11).
Vậy sống bất cứ môi trường nào, ta
hãy noi gương Mẹ Maria đoán ý của người xung quanh để phục vụ, làm cho họ vươn
tới sự trọn lành.
11/ MẸ MARIA LÀM ỨNG NGHIỆM LỜI CHÚA NÓI VỀ NGƯỜI PHỤ
NỮ ĐẠP NÁT ĐẦU CON RẮN ĐỂGIẢI
CỨU CON NGƯỜI THOÁT ÁN PHẠT CHO TỘI NGUYÊN TỔ GÂY NÊN
Sau khi Adam, Eva phạm tội, Chúa
hứa ban Đấng Cứu Độ để cứu dòng tộc của họ: “Miêu duệ người nữ đạp nát đầu rắn” (St 3,15- Bản Bảy
Mươi - tiếng Hy Lạp), hoặc “Người phụ nữ đạp nát đầu rắn” (Bản Phổ Thông -
tiếng La Tinh).
- Theo
bản Bảy Mươi: Miêu duệ đó chính là Chúa Giê-su, người phụ nữ chính là Đức
Maria, là Hội Thánh. Chính Con Đức Maria tiêu diệt satan.
-
Theo
bản Phổ Thông: Người phụ nữ là Đức Maria, là Hội Thánh, nhờ có Chúa ở cùng, đã
tiêu diệt nọc độc rắn satan cám dỗ loài người.
Vậy ai sống Lời Chúa như Mẹ Maria,
thì được đồng công cộng tác với Chúa trong công cuộc cứu độ loài người.
12/ ĐỨC MARIA LÀ MẸ THẬT CỦA CÁC KI-TÔ HỮU
Xưa kia vì Eva không tuân phục Lời
Chúa, nên Chúa phán: “Ta sẽ gia tăng đau
khổ cho ngươi trong việc thai nghén của ngươi! Trong đau đớn, ngươi sẽ sinh con
đẻ cái” (St 3,16a). Điều ấy đã ứng nghiệm nơi Đức Maria trong ngày Thứ Sáu
Tuần Thánh. Vì trên đồi Sọ, Con Mẹ đã chết, thế mà loài người độc ác còn đâm
thủng tim Con Mẹ! Lúc ấy Đức Giê-su không cảm thấy đau vì đã chết, nhưng Mẹ vô
cùng đau đớn. Truyền thống của Hội Thánh hiểu rằng nước và máu từ tim Đức
Giê-su đổ xuống chính là Bí tích Thánh Tẩy và Thánh Thể khơi nguồn để sinh các
Ki-tô hữu làm con Thiên Chúa, đồng thời cũng là con của Đức Maria.
Vậy nơi đồi Sọ, Đức Giê-su là Adam
cuối cùng và Maria là Eva mới, cùng sinh ra dòng giống nhân loại mới được Chúa
cứu độ.
13/ MẸ MARIA MUỐN CHÚNG TA DỰ LỄ HẰNG NGÀY ĐỂ ĐƯỢC ĐẦY
ÂN PHÚC
Trong ngày Truyền Tin, thiên thần
thưa với Đức Maria: “Vui lên, hỡi Đầy Ơn Phúc, Chúa ở cùng Người” (Lc 1,28). Mẹ
trở thành Đấng đầy ơn phúc, có nghĩa là Mẹ được giống Thiên Chúa, vì được Chúa
ở cùng. Bởi đó, mỗi khi ta dự Lễ trọn vẹn, Chúa cũng ở cùng ta, để ta được đồng
danh với Đức Maria “Đầy Ơn Phúc”
(đây là một danh từ, là hữu thể, chứ không phải là tĩnh từ, là phẩm tính của
con người).
Vì thế, ai bỏ dự Lễ, Mẹ Maria vô
cùng lo lắng đi tìm kiếm về. Chân lý này đã được diễn tả trong dụ ngôn người
phụ nữ có mười đồng, mất một, bà lo lắng tìm kiếm cho bằng được, tìm được rồi,
bà vui mừng mời cả lối xóm đến chia vui (x Lc 15,8-10).
Quả thật, sau khi Chúa Giê-su Phục
Sinh, Ngài chỉ còn 11 môn đệ, mà trong đêm Chúa nhật, là thời điểm Hội Thánh sơ
khai dâng Lễ, lúc ấy chỉ có 10 môn đệ, thiếu ông Tôma, chắc chắn làm cho Đức
Maria lo lắng. Một tuần lễ sau, ông Tôma trở lại với cộng đoàn, thì Mẹ Maria
vui mừng hơn bà góa tìm lại được đồng bạc mất cho đủ mười đồng! (x Ga
20,19-31).
Cũng thế, trong ngày lễ Ngũ Tuần,
Mẹ cùng cầu nguyện với các môn đệ để xin Chúa Thánh Thần đến canh tân đổi mới
các môn đệ (x Cv 1,14). Đáng lẽ phải là Nhóm Mười Hai, là số người con của ông
Giacop xưa làm nên dân Israel ; thì nay ông Giacop mới là Đức Giêsu tuyển chọn Mười
Hai môn đệ để lập nên Israel mới, đem ơn cứu độ cho muôn dân. Nhưng hôm đó chỉ
có Mười Một, vì Giu-đa đã tự vẫn! Bởi thế, khi ông Matthia được tuyển chọn vào
hàng môn đệ Đức Giê-su, thay cho Giu-đa, thì Đức Maria vui mừng biết bao! (x Cv
1,23-26).
14/ MẸ MARIA LÀ TRẠNG SƯ, VỊ BẢO TRỢ, ĐẤNG PHÙ HỘ VÀ
ĐẤNG TRUNG GIAN
Giáo huấn Công Đồng Vat.II trong
Hiến Chế Hội Thánh số 62 nói về Đức Mẹ:
“Trong nhiệm cuộc ân sủng, Đức Maria luôn tiếp tục thiên chức làm mẹ, từ
khi Ngài tin tưởng ưng thuận trong ngày Truyền Tin – sự ưng thuận mà Ngài đã
không ngần ngại giữ vững bên thập giá – cho tới lúc vĩnh viễn hoàn tất việc cứu
độ mọi người được tuyển chọn. thực vậy, sau khi về trời, vai trò của Ngài trong
việc cứu độ không chấm dứt, nhưng Ngài vẫn tiếp tục liên lỉ cầu bầu để đem lại
cho chúng ta những ân huệ giúp chúng ta được phần rỗi đời đời. với tình mẫu tử,
Ngài chăm sóc những anh em của Con Ngài đang lữ hành trên dương thế, và đang
gặp bao nguy hiểm, thử thách, cho đến khi họ đạt tới hạnh phúc Quê Trời. Vì thế
trong Hội Thánh, Đức Trinh Nữ được kêu cầu qua các tước hiệu: TRẠNG SƯ, VỊ BẢO
TRỢ, ĐẤNG PHÙ HỘ và ĐẤNG TRUNG GIAN. Tuy
nhiên phải hiểu các tước hiệu ấy thế nào để không thêm bớt gì vào vinh dự và
quyền năng của Đấng Trung Gian duy nhất là Chúa Giêsu (1Tm 2,5-6).
Thực vậy, không bao giờ có thể đặt một tạo vật ngang với Ngôi Lời nhập
thể và cứu chuộc ; nhưng cũng như chức Linh Mục của Chúa Kitô được thông ban
dưới nhiều hình thức cho các thừa tác viên và các giáo dân, và cũng như tốt
lành duy nhất của Thiên Chúa được ban phát nhiều cách cho các tạo vật, thì sự
trung gian duy nhất của Đấng Cứu Thế không
những không loại bỏ mà còn khuyến khích các thụ sinh cộng tác trong sự
tùy thuộc vào nguồn mạch duy nhất.
Vai trò tùy thuộc ấy của Đức Maria, Giáo Hội không ngần ngại tuyên
xưng mà luôn nghiệm thấy vào nhắn nhủ các tín hữu ghi nhớ trong lòng để nhờ sự
nâng đỡ và phù hộ từ mẫu của Ngài, họ gắn bó mật thiết hơn với Đấng Trung Gian
và Cứu Thế”
Khi ta chiêm ngưỡng một pho tượng
kỳ diệu, tuyệt tác, thì đương nhiên ta khen nhà điêu khắc tài ba. Do đó khi ta
chiêm ngưỡng danh dự và vinh quang của Mẹ Maria, thì ta phải cùng với Mẹ mà cất
tiếng tạ ơn “Đấng Toàn Năng đã làm cho
tôi những điều cao cả” (Lc 1,49).
15/ MẸ MARIA, ĐẤNG ĐỒNG CÔNG CỨU CHUỘC
Đức Giê-su dạy: “Phải cầu nguyện luôn, không được nản chí”
(Lc 18,1: Tin Mừng). Cụ thể là bắt chước bà góa kiên trì đấu tranh cho công lý
giữa rừng người gian ác, đòi mọi người kể cả thẩm phán bất lương phải nhìn nhận
công lý nơi bà. Bà góa đó chính là Mẹ Maria, vì suốt cuộc đời Mẹ kiên trì sống
công chính, gìn giữ ơn Vô Nhiễm mà chính Đức Giê-su, Con lòng Mẹ đã ban cho qua
Mầu Nhiệm Nhập Thể. Vì Đức Maria sinh Đức Giêsu, Ngài có hai bản tính: loài
người và Thiên Chúa không thể tách biệt, nên Đức Maria trở nên Mẹ Thiên Chúa.
Do đó Mẹ có quyền đòi hỏi cả loài người phải nhìn nhận công lý của Mẹ, chính là
tin và đón nhận Con Mẹ, thực là Con Thiên Chúa muốn đến dẫn đưa loài người vào
con đường công lý, đạt sự sống thật dồi dào vô cùng tận! Nhưng suốt 33 năm, Mẹ
không tìm thấy người nào trong nhân loại nhìn nhận công lý của Mẹ đưa đến là
Con Thiên Chúa hằng sống, để họ được sống đời đời (x Ga 17,3). Cuối cùng Mẹ tới
đồi Sọ, đó là nơi tòa án của biết bao nhiêu thẩm phán bạo
ngược: “Dẫu rằng chúng chẳng kính
sợ Thiên Chúa, mà cũng chẳng coi ai ra gì” (Lc 18,4: Tin Mừng), nên chúng
đã ra lệnh giết Con của Mẹ, loại trừ công lý khỏi mặt đất, nhưng cuối cùng
chính ông sĩ quan ngoại giáo Roma cũng thuộc loại thẩm phán trong phiên tòa xử
Đức Giê-su, khi nhìn thấy tên lính dùng giáo đâm vào tim Ngài, máu và nước đổ
xuống, lúc ấy ông ta mới nói lên sự thật, nhìn nhận công lý của bà góa Maria: “Đích thực người này là Con Thiên Chúa”
(Mc 15,39).
THUỘC LÒNG
“Giêsu bảo gì cứ làm theo”
(Ga 2,5)
LM. GIUSE ĐINH QUANG THỊNH