BÀI GIẢNG
CẦU NGUYỆN
LÀ CỘNG TÁC VỚI CHÚA GIÊSU
Nội dung Kinh Lạy Cha là Đức Giêsu
đúc kết chương trình cứu độ loài người. Hội Thánh đã dùng chính thức trong
Phụng Vụ đọc ngày ba lần: một lần trong Thánh Lễ, hai lần trong Kinh Sáng và
Kinh Chiều, để ta biết cách cộng tác với Thiên Chúa làm hoàn tất chương trình
cứu độ, nhờ Đức Giê-su đã khai mở từ mầu nhiệm Tử Nạn và Phục Sinh.
Khi cầu nguyện, trước nhất ta phải
ý thức tương quan giữa mình với Thiên Chúa tùy theo hai ông Mattheu và Luca
nhấn mạnh:
- Theo ông Matthêu: Ta là Hiền Thê của Chúa Kitô: Dựa
vào cách ghi của ông Mát-thêu, Đức Giêsu dạy ta: “Lạy Cha chúng con”. Danh hiệu “chúng
con” ở đây, ta phải hiểu là Hội Thánh Chúa Kitô, mà Hội Thánh Chúa Kitô là
Hiền Thê của Ngài (x Kh 19,7). Do đó, khi đọc Kinh Lạy Cha của Matthêu trong
Phụng Vụ, ta phải hiểu đó là tiếng nói của Hiền Thê với Chúa Giêsu là Phu Quân
mình (x HCPV số 84).
- Theo ông Luca: Trong Chúa Giêsu, ta là đứa con thơ dại: Dựa vào cách
ghi nhận của ông Luca, Đức Giêsu dạy ta cầu nguyện: “Lạy Cha” (Abba). “Abba” là tiếng nói đầu tiên của trẻ thơ mới chớm
nở trí khôn, nó bập bẹ kêu lên trước sự hiện diện của người sinh dưỡng dục nó.
Khi đã lãnh Bí tích Thánh Tẩy, ta
là nghĩa tử của Thiên Chúa, tức là người con được sinh ra bởi Lời Chúa (x Gc
1,18), cũng như bởi Chúa Giêsu Phục Sinh (x Cv 2,38). Thánh Thần mở miệng ta
biết gọi Thiên Chúa là “CHA” (Abba). Thánh Phaolô nói: “Anh em đã nhận được Thần Khí làm cho nên nghĩa tử, nhờ đó chúng ta được
kêu lên rằng “Abba! Cha ơi!” (Rm 8,15bc: Tung Hô Tin Mừng). Và vì còn là
một đứa trẻ thơ không biết kêu xin “CHA”, thì Thánh Thần (Thần Khí) sẽ lựa ý
Thiên Chúa để chuyển cầu cho (x Rm 8,14-17), đặc biệt là lúc ta tham dự Phụng
Vụ, nhất là Thánh Lễ.
Chính Đức Giêsu, khi cầu nguyện
Ngài luôn thưa: “Lạy Cha”. Đan cử :
° Lạy Cha, xin cứu Con khỏi giờ này (Ga 12,
27).
° Xin Cha làm vinh hiển Con
(Ga 12, 28).
° Xin Cha cất chén đắng khỏi Con (Lc 22, 42).
° Xin Cha tha cho
chúng (Lc 23, 34).
° Xin Cha đón nhận
hồn Con (Lc 23, 46)….
Như thế, khi ta cầu nguyện “Lạy Cha chúng con” (theo Matthêu), thì
được Đức Giêsu lưu ý đến nhu cầu của ta như tân lang chăm sóc tân nương ; còn
khi ta cầu nguyện “Lạy Cha” (theo
Luca), Thiên Chúa Thiên Chúa lưu ý đến nhu cầu của ta như cha mẹ chăm sóc cho
đứa con thơ dại.
Vậy “lạy Cha chúng con” hay “lạy
Cha”, thì cả hai tương quan này đều dựa trên mãnh lực tình yêu.
Trong tình yêu của ta đối với
Thiên Chúa khi cầu nguyện bằng Kinh Lạy Cha, ta còn phải ý thức tám điều sau
đây:
1/ Ý thức khi dùng động từ “LẠY”: Từ này chỉ dùng riêng việc thờ lạy Thiên Chúa tối cao, đối với Đức
Mẹ, chúng ta không thờ, nhưng là biệt kính ; còn với các thánh khác, chúng ta
chỉ tôn kính mà thôi.
2/ Ý thức lời cầu: “XIN LÀM CHO DANH THÁNH CHA VINH HIỂN”:
Danh Cha là Thánh: Có nghĩa là Ngài khác
biệt và trổi vượt hơn mọi loài thụ tạo. Bởi vì:
a-
Ngài là ĐẤNG HẰNG CÓ
(Giavê): Ngài không có khởi sự (không có ngày sinh) và không có tận cùng (bất
tử), ngoài Thiên Chúa không có gì hiện hữu tốt đẹp và không có gì trườngtồn.
b-
Ngài là Đấng TOÀN NĂNG: muốn
thế nào có như vậy cách dễ dàng, đặc biệt biến dữ ra lành, chết ra sống, tội ra
ơn.
c-
Ngài là CHÂN, THIỆN, MỸ: ngoài
Chúa không có gì đúng, không có gìthánh
thiện, không có gì tốt đẹp.
d-
Ngài là TÌNH YÊU: Thiên
Chúa chỉ có thương xót, tha thứ và ban ơn.
e-
Ngài là SỰ SỐNG: ngoài
Thiên Chúa không có sự sống: sự sống nơi muôn loài thụ tạo đều bởi Thiên Chúa
ban.
Như vậy những gì Thiên Chúa có đều tuyệt
hảo. Ai được kết hợp với Chúa Giêsu, Ngài cho họ được tham dự vào điều “CÓ”
của Thiên Chúa, và như thế là danh Chúa
được lộ ra sự vinh hiển nơi Hiền Thê của Đức Kitô (Mt), hay nơi các con cái
Thiên Chúa (Lc).
3/ Ý thức lời cầu: “TRIỀU ĐẠI CHA MAU
ĐẾN”: Mọi sinh hoạt của loài người đều cho chính Chúa làm Chủ,
hướng dẫn, chăm sóc, như thuở xưa dân Do Thái không có vua, chỉ có Lời Chúa
hướng dẫn, bảo vệ, chăm sóc họ, nên họ vẫn cầu nguyện: “Chúa là đồng minh, là thành lũy che chở, là Đấng
giải thoát tôi khỏi tử thần. Phúc cho dân nào được may mắn có Chúa làm Vua” (Tv 144/143/,
2.15). Như thế một quốc gia thăng tiến hay tụt hậu đều lệ thuộc vào cách lãnh
đạo của một triều đại, mà không có triều đại nào sánh được với Triều Đại Nước
Thiên Chúa.
4/ Ý thức lời cầu: “XIN CHA CHO CHÚNG
CON NGÀY NÀO CÓ LƯƠNG THỰC NGÀY ẤY”:
Bởi vì mỗi người
cần có 5 lương thực sau đây để được sống hạnh phúc:
a- Sống
bởi Đức Tin, Đức Cậy và Đức Mến (x Rm 1,17 ; 1Cr 13,13).
b- Sống
bởi có trái tim biết nghe Lời Chúa (x 1V 3,9-13 ; Mt 4,4).
c- Sống
bởi Chúa Giê-su Thánh Thể (x Ga 6,35).
d- Sống
bởi có khả năng thực hành Lời Chúa (x Ga 4,34).
e- Sống
bởi của cải vật chất không thừa không thiếu (x Cn 30,8-9).
Năm lương thực trên người ta chỉ tìm
thấy nhờ tham dự Thánh Lễ cách ý thức và trọn vẹn. Thực vậy: Muốn có ĐỨC TIN, ĐỨC CẬY, ĐỨC MẾN,
ta phải năng dự lễ ; muốn có LỜI CHÚA, phải khao khát nghe giảng ;
muốn Chúa cho sống lại, phải RƯỚC LỄ ; muốn THỰC HÀNH LỜI CHÚA phải có Chúa ở
cùng, và muốn có ĐỦ CỦA CẢI VẬT CHẤT, phải tìm kiếm Nước Thiên Chúa (dự Lễ) trước đã (x Mt 6, 33). Và như thế linh hồn ta cần tới bốn nguồn sống, trong khi
đó thân xác chỉ có một là của cải vật chất.
Năm bánh hằng sống trên đây đã được Chúa
tiên báo khi Ngài dùng năm bánh để nuôi một đoàn dân đông không đếm được, họ
đang đói mệt lả người mà được ăn no, lại còn dư 12 thúng! (x Ga 6).
Vậy mỗi ngày ta cần đi dự Lễ để có Lương
Thực hằng ngày (x Lc 11,3: Tin Mừng), Lương Thực này còn cần hơn xưa mỗi ngày
dân Do Thái phải đi lượm để ăn mới có sức tiến vào đất Chúa hứa (x Xh 16,4-5).
5/ Ý thức lời cầu: “CHO CHÚNG CON”: Ngài không dạy ta “xin cho con” mà là “xin cho
chúng con” . Vì mỗi người chỉ thực sự được hạnh phúc, khi họ sống giữa những
người đầy tràn hạnh phúc. Như thế, quan tâm chăm sóc cho mọi người mới chính là
chăm lo cho bản thân. Thánh Phan-xi-cô nói: “Chính lúc quên mình là lúc gặp lại bản thân” (Kinh Hòa Bình). Cụ
thể ông Gióp suốt thời gian bị ma quỷ quấy phá, làm ông quá khổ, những ngày đầu
ông còn chịu đựng, vẫn dâng lời tạ ơn: “Chúa
đã ban cho Ngài lại lấy đi, xin tạ ơn Chúa” (G 1,21b). Nhưng vì sự chịu
đựng con người có giới hạn, ông lại cất tiếng than: “Tại sao tôi không chết đi vừa lúc chào đời, không tắt thở ngay khi lọt
lòng mẹ” (G 3,11). Sau những ngày dài Chúa huấn luyện ông qua gian khổ, ông
đã mở rộng tầm con mắt: biết cầu nguyện
cho các bạn hữu của mình, thì Chúa ban gia tăng gấp đôi những gì ông đã mất về
tài sản, và Chúa cho ông sinh thêm bảy trai ba gái xinh đẹp, khỏe mạnh thông
minh hơn trước (x G 42,10t).
Vậy ta hãy xin cho mọi người được
ơn nhận biết Thiên Chúa là Cha chung, Ngài là Cha vô cùng giàu có, đầy tình
thương, chậm giận, hay tha thứ và ban phát ơn cho tất cả mọi người là anh em
con một nhà, thì đã làm cho thế giới này trở thành Thiên Đàng.
6/ Ý thức lời cầu: “XIN THA TỘI CHO CHÚNG CON, VÌ CHÍNH
CHÚNG CON CŨNG THA CHO MỌI NGƯỜI MẮC LỖI VỚI CHÚNG CON” (Lc 11, 4): Chúa tha tội cho ta
như vua tha nợ cho bầy tôi một món nợ vượt sức hắn trả. Nhưng nếu ta không tha lỗi
cho đồng loại, thì Chúa cũng không tha tội
cho ta, như vua ra lệnh tống ngục tên đầy tớ vừa được vua tha bổng món nợ 10.000 nén vàng, tương đương với 200.000 năm công lao động, mà hắn
lại không cho bạn khất 100$, số tiền tương đương hơn 3 tháng lương công nhật (x theo Chú
Giải của Nhóm Đại Kết trong Bible de Jérusalem ; Mt 18, 23t).
Do đó nếu ta xin Chúa tha nợ cho ta, như ta tha cho kẻ có nợ với ta,
thì té ra hai món nợ bằng nhau? Trong khi đó ta xúc phạm đến Thiên Chúa rất
nặng nề, còn đồng loại xúc phạm đến ta chẳng đáng là gì !
7/ Ý thức
lời cầu: “XIN
ĐỪNG ĐỂ CHÚNG CON SA CHƯỚC CÁM DỖ” (Lc 11,4b): Ai cũng thấy mình có nhiều
cám dỗ: tiền của, ăn ngon mặc đẹp, vì đó là động lực làm cho mọi người tiến
thân. Nhưng nếu sa chước cám dỗ: mê ăn uống, mê tiền của, thì giống như nguyên
tổ Adam, Eva đã nghe satan xúi giục gạt Lời Chúa ra khỏi cuộc sống, tự mình
định đoạt tốt xấu để hành động, hậu quả là thần chết xuất hiện, truyền đến cả
giống nòi (x St 3).
Vả lại, tội ta
phạm cũng còn do ý Chúa cho phép satan để ta không tự cao tự đại về những ơn
cao siêu Chúa ban (x 2Cr 12,7-9). Nhưng nếu nhận biết mình có tội, sinh lòng
sám hối và chạy đến lòng thương xót
Chúa, như anh trộm lành, thì lại được Chúa cho vào Thiên Đàng trước nhất (x Lc
23,43), và nếu còn sống, thì Chúa lại biến tội ra ơn, đúng như lời thánh Phaolô
nói: “Ở đâu tội lỗi đã lan tràn, ở đó ân sủng càng chan chứa” (Rm 5,20).
8/ Ý thức cầu xin CHU TOÀN BỔN PHẬN LO
CHO MỌI NGƯỜI NÊN THÁNH: Nhất làlàm cho mọi người phải hiệp thông với
chủ chăn của Hội Thánh trong một Đức Tin, và phải tin tưởng giảng Lời Chúa cho
mọi người để Lời Chúa diệt tội họ.
a- Phải hiệp thông với chủ chăn
của Hội Thánh trong một Đức Tin:
Ta biết Hội Thánh
là một gia đình: Thiên Chúa là Cha, mọi người là anh em với nhau. Dù ông
Phaolô, là Tông Đồ xuất sắc trổi vượt hơn các Tông Đồ khác, nhưng ông vẫn tỏ ra
tùng phục “những người anh trong Nhà Cha” mà ông gọi là “các Tông Đồ thượng
đẳng”, như các ông Phêrô, Giacôbê. Ông Phaolô sau ba năm đã được học giáo lý
riêng với Chúa ở Ả Rập, ông về đoàn tụ với gia đình Hội Thánh tại Giêrusalem,
để nhận quyền “những người anh” sai đi rao giảng Tin Mừng cho dân ngoại (x Gl
1,18). Rồi 14 năm sau, ông Phaolô cùng với ông Banaba và ông Titô lại lên
Giêrusalem để được Thiên Chúa mạc khải, rồi trình bày cho các Tông Đồ có thế
giá về Tin Mừng các ông đã rao giảng cho dân ngoại, nếu không hiệp thông với
Tông Đồ Đoàn, thì việc phục vụ của ông trở nên vô ích. Tuy nhiên, ông vẫn phải
có trách nhiệm với các anh em trong gia đình Nhà Cha. Đan cử: Khi ông biết vị
thủ lãnh Hội Thánh là Phêrô đã có lối sống giả hình: dùng bữa với người chưa
cắt bì, nhưng khi gặp “các người của ông Giacôbê đến, ông lại tránh né tự
tách ra, vì sợ những người đã được cắt bì. Ông đã làm cho những người Do Thái
khác cũng theo ông mà giả hình giả bộ, khiến cả ông Banaba cũng bị lôi cuốn mà
giả hình như họ”
Ông Phêrô sống
như thế nghịch với quyết định của Công Đồng Giêrusalem, chính ông được Chúa nhờ
mạc khải riêng cho đã tuyên bố phải bỏ cắt bì cho dân ngoại, chỉ cần họ tin là
ban Bí tích Thánh Tẩy. Bởi thế ông Phaolô “đã trách ông Phêrô trước mặt
mọi người: “Nếu ông là người Do Thái mà còn sống như dân ngoại, chứ không như người
Do Thái, thì làm sao ông lại ép người dân ngoại phải xử sự như người Do Thái” (x Gl
2,1-2.7-17: Bài đọc năm chẵn). Vì Thầy Giêsu đã truyền: “Anh em
hãy đi khắp tứ phương thiên hạ mà loan báo Tin Mừng” (Mc 16,15: ĐC
năm chẵn). Đi khắp thế gian giảng Tin Mừng thì phải hiểu là giảng cho cả dân
ngoại nữa, để ai tin mà lãnh Bí tích Thánh Tẩy, họ cũng là anh em với chúng ta,
cùng có một Cha chung trên trời, thì phải bỏ lối sống giả hình như ông Phêrô,
lúc ông chung bàn tiệc với dân ngoại mới trở lại Đạo.
Như vậy, không
phải ông Phaolô thiếu kính trọng thủ lãnh Phêrô, mà vì ông yêu Hội Thánh, yêu
người anh em Phêrô, muốn người anh em phải sống gương mẫu, đừng giả hình! Chúa
dạy: “Ngươi không được thiên vị người yếu thế, cũng không được nể mặt người
quyền cao chức cả, nhưng phải biết xét xử công minh” (Lv 19,15).
Bởi vì “yêu hoa không có nghĩa là yêu cả con sâu nằm trong bông hoa, nhưng phải
tìm cách diệt con sâu đó, dù có phải làm rụng phấn hoa!” (phaolomoi.net). Cũng không phải chỉ
diệt con sâu nằm trong đóa hoa mình ưa chuộng, mà còn phải diệt cả con sâu nằm
trong hoa mình không thích.
b- Phải tin tưởng Lời Chúa
giảng cho dân ngoại, thì tội họ được diệt.
Thực vậy, ông Giona không muốn Chúa tha
tội cho dân Ninivê, chúng là dân ngoại,
ông không ưa thích, ông chỉ muốn Chúa diệt chúng, vì những “con sâu lớn” (tội
lỗi) nằm trong dân ngoại, thế nên “Giona bực mình lắm và ông nổi
giận. Ông cầu nguyện với Chúa: “Ôi lạy Chúa, đó chẳng phải là điều con đã
nói khi còn ở quê nhà hay sao? Chính vì thế
mà con đã vội vàng trốn đi Tác-xít. Con biết rằng Ngài là Thiên Chúa từ
bi nhân hậu, chậm giận và giàu tình thương, và hối tiếc vì đã giáng họa. Giờ
đây, lạy Chúa, xin Ngài lấy mạng sống con đi, vì thà con chết còn hơn là sống!”
Chúa hỏi ông: “Ngươi nổi giận như thế có lý không?” Ông Giona ra ngoài thành
làm một cái lều rồi ngồi bên dưới trong bóng mát, để xem cái gì sẽ xảy ra trong
thành Ninivê. Chúa khiến cây thầu dầu mọc lên ở phía trên ông Giona để có bóng
mát che đầu, hầu làm ông hết buồn bực. Ông Giona vui mừng lắm vì cây thầu dầu,
nhưng hôm sau khi hừng đông ló rạng, Thiên Chúa khiến một con sâu cắn cây thầu
dầu và cây bị héo, và mặt trời dội nắng xuống đầu ông Giona ; ông ngất xỉu và
xin cho mình được chết, ông nói: “Thà tôi chết còn hơn sống” (x Gn 4,1-8: Bài
đọc năm lẻ).
Như vậy, giết con sâu nằm trong bông
hoa, thì không quan trọng bằng dùng Lời Chúa mà thanh tẩy tội đồng loại. Thế mà
con sâu cắn chết cây thầu dầu đã làm ông Giona buồn bực. Nếu Chúa giết con sâu
ấy, để cây cho ông hưởng bóng mát, chắc chắn ông vui! Thế thì tại sao ông Giona
lại không vui mừng hơn khi ông lên tiếng giảng cho dân Ninivê, nhờ vậy mà Chúa
đã diệt con sâu tội lỗi nơi dân này, và không giáng họa trên họ, nhất là ông đã
nhận ra Chúa là Đấng “chậm giận lại giầu tình thương và lòng thành tín” (x Gn 4,2 = Tv
86/85,15b: ĐC năm lẻ).
THUỘC LÒNG.
Năm lương thực cần dùng mỗi ngày ta phải xin Chúa là :
1-
Thiếu TIN, CẬY, MẾN, là
chết (x Rm 1,17 ; 1Cr 13,13).
2-
Chết nhờ THÁNH THỂ, vẫn
sống (x Ga 6,35).
3-
Sống nhờ THỰC HÀNH LỜI
CHÚA (x Ga 4,34).
4-
Chúa cho TRÁI TIM NGHE
LỜI (x 1V 3,9-13 ; Am 8,11).
5-
Lời Chúa ban CỦA ĐỦ
DÙNG (x Cn 30,8-9).
Linh mục GIUSE ĐINH QUANG
THỊNH