Kinh Thánh
Thời kỳ
Sách
Chương
 
      Lm. Trịnh Ngọc Danh
Bài giảng
THỨ TƯ SAU CN 22 TN-NĂM LẺ: LỊCH LÀM VIỆC CỦA ĐỨC GIÊSU
Âm thanh
Video
[ Bấm play 2 lần liên tiếp để xem video. Vui lòng chờ chút nếu kết nối mạng chậm ]
BÀI ĐỌC 1 VÀ 2 (NẾU CÓ)
BÀI ĐỌC: Cl 1,1-8
1 Tôi là Phao-lô, bởi ý Thiên Chúa được làm Tông Đồ của Đức Ki-tô Giê-su, và anh Ti-mô-thê là người anh em,2 kính gửi dân thánh tại Cô-lô-xê, là những anh em tín hữu trong Đức Ki-tô. Xin Thiên Chúa là Cha chúng ta ban cho anh em ân sủng và bình an.3 Chúng tôi không ngừng tạ ơn Thiên Chúa, là Thân Phụ Đức Giê-su Ki-tô, Chúa chúng ta, khi cầu nguyện cho anh em.4 Thật vậy, chúng tôi đã được nghe nói về lòng tin của anh em vào Đức Ki-tô Giê-su, và về lòng mến của anh em đối với toàn thể dân thánh;5 lòng tin và lòng mến đó phát xuất từ niềm trông cậy dành cho anh em trên trời, niềm trông cậy anh em đã được nghe loan báo khi lời chân lý là Tin Mừng6 đến với anh em; Tin Mừng này đang sinh hoa trái và lớn lên trên toàn thế giới như thế nào, thì nơi anh em cũng vậy, từ ngày anh em được nghe nói và nhận biết ân sủng của Thiên Chúa thực sự là gì.7 Anh em đã học hỏi điều này với anh Ê-páp-ra là người đồng sự yêu quý của chúng tôi và là người thay thế chúng tôi với tư cách là người phục vụ trung thành của Đức Ki-tô.8 Chính anh đã cho chúng tôi hay về lòng mến mà Thần Khí ban cho anh em.
ĐÁP CA: Tv 51
Đ.    Lạy Chúa, con tin cậy vào tình thương Chúa, mãi mãi đến muôn đời.  (c 10b)
10  Phần tôi, khác gì cây ô-liu xanh rờn trong nhà Thiên Chúa, tôi tin cậy vào tình thương Thiên Chúa mãi mãi đến muôn đời.
11 Lạy Chúa, con nguyện tạ ơn Ngài luôn mãi, vì Ngài đã ra tay. Trước mặt những người hiếu trung với Chúa, con trông đợi danh Ngài, vì danh Ngài thiện hảo. 
BÀI TIN MỪNG
TUNG HÔ TIN MỪNG: Lc 4,18
Hall-Hall: Chúa sai tôi đi loan báo Tin Mừng cho kẻ nghèo hèn, công bố cho kẻ bị giam cầm biết họ được tha. Hall.
TIN MỪNG: Lc 4,38-44
38 Đức Giê-su rời khỏi hội đường, đi vào nhà ông Si-môn. Lúc ấy, bà mẹ vợ ông Si-môn đang bị sốt nặng. Họ xin Người chữa bà.39 Đức Giê-su cúi xuống gần bà, ra lệnh cho cơn sốt, và cơn sốt biến mất: tức khắc bà trỗi dậy phục vụ các ngài.
40 Lúc mặt trời lặn, tất cả những ai có người đau yếu mắc đủ thứ bệnh hoạn, đều đưa tới Người. Người đặt tay trên từng bệnh nhân và chữa họ.41 Quỷ cũng xuất khỏi nhiều người, và la lên rằng: "Ông là Con Thiên Chúa! "Người quát mắng, không cho phép chúng nói, vì chúng biết Người là Đấng Ki-tô.
42 Sáng ngày, Người đi ra một nơi hoang vắng. Đám đông tìm Người, đến tận nơi Người đã đến, và muốn giữ Người lại, kẻo Người bỏ họ mà đi.43 Nhưng Người nói với họ: "Tôi còn phải loan báo Tin Mừng Nước Thiên Chúa cho các thành khác nữa, vì tôi được sai đi cốt để làm việc đó."44 Và Người rao giảng trong các hội đường miền Giu-đê. 
BÀI GIẢNG
LỊCH LÀM VIỆC CỦA ĐỨC GIÊSU
Tin Mừng hôm nay (Lc 4,38-44) ghi lại cho chúng ta những sinh hoạt của Đức Giê-su trong một ngày :
I/ GIẢNG LỜI
Theo Luật Phụng Vụ Do Thái, Đức Giê-su phải chấm dứt giảng dạy ở hội đường vào 9 giờ sáng, nên sau giờ này, Đức Giê-su đã ra khỏi hội đường (x Lc 4,38a).
II/ CHỮA BỆNH
Ngài về nhà mẹ vợ ông Phê-rô, thấy bà này lâm cơn sốt nặng, Ngài đứng cúi mình trên bà và quát bảo cơn sốt, tức khắc bà được lành mạnh. Vì người Do Thái quan niệm bệnh là hậu quả tội lỗi (x Ga 9,2). Ai phạm tội là thuộc quyền quản lý của ma quỷ. Bởi đó Đức Giê-su quát bảo cơn sốt cũng có nghĩa là Ngài đuổi quỷ không cho phép chúng làm hại ai! Sau đó bà chỗi dậy phục Đức Giê-su và các Tông Đồ. Nghĩa là những ai được Chúa cứu phải tham gia vào việc xây dựng và phát triển Nước Thiên Chúa (x Lc 4,39).
III/ TRỪ QUỶ
Sau khi đã chữa lành cho bà gia ông Phê-rô, từ lúc đó biết bao người mắc đủ các chứng bệnh tuốn đến với Ngài, đều được Ngài chữa lành, tức là quỷ xuất khỏi nhiều người, nó la lên: “Ông là Con Thiên Chúa” (x Lc 4,40-41: Tin Mừng), Đức Giê-su quát mắng  satan, cấm không cho nói về Ngài, vì bốn lý do :
1.      Người nào biết Đức Giê-su là Con Thiên Chúa, người ấy được Chúa cứu độ (x Ga 17,3). Quỷ không được Chúa cứu, nên nó không được phép nói Ngài là Con Thiên Chúa.
2.      Quỷ không được phép rao giảng Tin Mừng.
3.      Quỷ nói Đức Giê-su là Con Thiên Chúa, nó nhằm xúi người Do Thái hiểu lầm Ngài là Đấng Mêsia (Ki-tô) đến để giành độc lập cho dân tộc thoát đế quốc Roma thống trị. Chính các Tông Đồ của Đức Giê-su cũng luôn mơ ước như thế (x Cv 1,6). Điều ấy không đúng với sứ mệnh của Ngài và sẽ gây cớ cho người Roma hiểu lầm về Ngài thu phục lòng dân để chống lại đế quốc Roma, thì chắc chắn họ không dễ dàng để Ngài hoạt động. Như thế quỷ nói Đức Giê-su là Con Thiên Chúa, không có ý tuyên xưng Ngài là Đấng đến cứu nhân loại, mà nó  muốn chính quyền Roma diệt Ngài sớm.
4.      Chỉ khi nào Đức Giê-su qua Tử Nạn và Phục Sinh, Ngài hoàn tất sứ mệnh Chúa Cha trao cứu độ loài người, lúc đó Ngài mới muốn cho toàn thể nhân loại phải tuyên xưng Đức Tin: Giêsu là Con Thiên Chúa(x Mc 15,39). Do đó muốn nói chính xác về ai, ta phải đợi sau khi người ấy đã qua đời.
IV/ CẦU NGUYỆN
Sáng ngày, Người đi ra một nơi hoang vắng. Đám đông tìm Người, đến tận nơi Người đã đến, và muốn giữ Người lại, kẻo Người bỏ họ mà đi.43 Nhưng Người nói với họ: "Tôi còn phải loan báo Tin Mừng Nước Thiên Chúa cho các thành khác nữa, vì tôi được sai đi cốt để làm việc đó."44 Và Người rao giảng trong các hội đường miền Giu-đê” (x Lc 4,42-44: Tin Mừng).
Nhìn vào cơ cấu Tin Mừng Lc 4, 38-44  ta rút ra bảy xác tín :
1-  Giảng Lời và cầu nguyện đã đóng khung mọi sinh hoạt trong ngày. Nói cách khác, mọi việc ta làm trong ngày mà thiếu cầu nguyện, thiếu giảng Lời, thì chẳng được Chúa chúc lành.
2-  Những bệnh nhân được lành mạnh là do Lời Chúa phán. Vì thế tác giả sách Khôn ngoan viết: “Nguời ta được lành mạnh không phải nhờ cỏ nọ hay thuốc kia, nhưng nhờ Lời Chúa chữa họ khỏi mọi tật nguyền” (Kn 16,12).
3-  Quỷ buông thả con người tháo chạy về sào huyệt của nó, cũng là nhờ Lời Đức Giê-su lên tiếng. Vì thế, ông Matthêu ghi nhận: “Đức Giê-su trừ mọi ác thần, chữa lành mọi kẻ đau ốm chỉ bằng Lời nói của Ngài” (Mt 8,16).
4-  Hội đường hay cộng đoàn Phụng Vụ phải là nơi loan báo Tin Mừng. Thực vậy, mở đầu Tin Mừng hôm nay, Đức Giê-su ra khỏi hội đường (x Lc 4,38), Ngài phục vụ nhu cầu thân xác mọi người, rồi trốn đi cầu nguyện. Kết thúc Tin Mừng hôm nay, Đức Giê-su vào hội đường giảng dạy (x Lc 4,44). Rõ ràng Đức Giê-su cứ ra, vào hội đường làm nổi bật việc giảng Lời trong cộng đoàn Phụng Vụ.
5-  Việc cầu nguyện trở thành khoen móc nối kết mọi sinh hoạt trong ngày với Chúa Ki-tô, nhờ đó ta được Ngài đồng công cộng tác biến mọi sự ra tốt đẹp (x Rm 8,28).
6-  Đức Giê-su vốn dĩ là Đấng toàn năng, vì Ngài là Thiên Chúa, vậy mà Ngài đã ưu tiên đặt việc cầu nguyện lên hàng đầu các sinh hoạt trong ngày, là Ngài muốn dạy mọi người chúng ta để làm cho công việc có giá trị tồn tại muôn đời, đóng góp vào chương trình cứu độ của Chúa (x Cv 5,39), nếu làm việc không nhờ, không với, không trong Chúa Giê-su, thì dẫu có thành công cũng chỉ là việc của sinh vật, không có giá trị cứu độ, trước sau sẽ ra tro bụi (x Cv 5,38). Bởi vì nhờ cầu nguyện, nhất là tham dự Thánh Lễ, ta như cành nho được tháp vào thân nho là Chúa Giê-su, như Lời Đức Giê-su nói: “Ai không lưu lại trong Ta thì như cành nho bị quăng ra ngoài, vì ngoài Ta các ngươi không thể làm được việc gì” (Ga 15,5). Bởi đó không có lý do nào làm ngăn trở việc dự Lễ mỗi ngày, nếu muốn đời thành công trong Chúa.
7-  Sứ giả Tin Mừng phải lưu động vất vả, không dừng ở một nơi nghỉ ngơi hay hưởng thụ, vì thế ông Luca ghi nhận: “Đức Giê-su đi rao giảng trong các hội đường miền Giuđê” (Lc 4,44: Tin Mừng). Thực ra vào thời ấy,khi nói đến miền Giuđê, người ta hiểu theo nghĩa rộng: đó là toàn diện nước Israel (x Lc 1,5 ; 6,17 ; 23,5). Như thế, trong một ngày Đức Giê-su đi khắp nước Do Thái rao giảng, thì quả là vất vả. Nhưng đó là dấu chỉ chính Chúa Giê-su giảng dạy mỗi khi Hội Thánh cử hành Phụng Vụ trên khắp hoàn cầu (x Dt 1,1-2)
Dù Đức Giê-su có ba quyền Tư Tế, Ngôn Sứ và Vương Đế, nhưng xem ra Ngài không chú trọng thi hành quyền Vương Đế để trục xuất quỷ, chữa lành nhiều bệnh nhân, mà Ngài chỉ thiết tha và ưu tiên thi hành hai quyền Tư Tế (cầu nguyện) và Ngôn Sứ (giảng Lời), thì đương nhiên Ngài đã thi hành quyền Vương Đế để xua trừ ác thần, đẩy xa tội lỗi ra khỏi con người làm cho họ được lành mạnh, cũng như giải quyết tất cả các nhu cầu chính đáng của mọi người. Nhà Bác học Archimède nói: “Cho tôi một đòn bẩy và một điểm tựa ngoài trái đất, tôi có thể bẩy trái đất lăn đi theo ý muốn”. Dựa vào câu nói này, người Công Giáo có thể suy ra: đòn bẩy đó là lời cầu nguyện, điểm tựa đó là Chúa Giê-su.
Sau khi Chúa Giê-su Phục Sinh, các Tông Đồ đã ý thức thực thi ba quyền Tư Tế, Ngôn Sứ và Vương Đế mà Ngài đã trao cho các ông tiếp tục “Ngày Làm Việc” giống Thầy Giêsu. Để nhấn mạnh các Tông Đồ phải tiếp nối ba quyền trên, các tác giả Tin Mừng đã ghi lại :
CVề sứ mệnh Tư Tế: Ông Luca ghi nhận các Tông Đồ hằng ngày trong Đền Thờ chúc tụng Thiên Chúa (x Lc 24,53), chứ không phải đi khắp thế gian giảng Tin Mừng như hai ông Mt và Mc ghi. Ông Luca có ý viết như thế, để nhấn mạnh rằng: trước khi lên đường rao giảng Lời cho muôn dân thì phải cầu nguyện. Nói cách khác, nếu không cầu nguyện thì đi giảng Lời không đạt hiệu quả.
C Về sứ mệnh Ngôn Sứ: Ông Matthêu và ông Marco thì nhấn mạnh các Tông Đồ phải đi khắp thế giảng Tin Mừng (x Mt 28,19-20 ; Mc 16,15-20).
C Về sứ mệnh Vương Đế: Ông Gioan ghi  Chúa Giê-su Phục Sinh trao quyền tha tội cho các Tông Đồ (x Ga 20,22-23), các ông phải phục vụ bằng sức mạnh do Đức Ái Đức Giê-su thúc đẩy (x 2Cr 5,14), đến nỗi sẵn lòng mất mạng như Thầy Giêsu (x Ga 21,18t).
Thời gian sau, các Tông Đồ gây được nhiều uy tín nơi giáo dân, khiến nhiều người bán hết tài sản dâng cho các ông để chia sẻ. Thế là các ông dùng quyền quản lý tiền bạc của mình để thi hành sứ mệnh Vương Đế, mà xao nhãng việc cầu nguyện và giảng Lời, đã gây ra bất hòa trong cộng đoàn. Nhờ ơn Chúa soi sáng, các ông đã nhận ra lỗi lầm của mình nên trao tiền của cho các Phó Tế quản lý để chia sẻ, còn các Tông Đồ trở về nhiệm vụ chính là cầu nguyện và giảng Lời, từ bấy giờ cộng đoàn được bình an và phát triển (x Cv 6,1-7).
Khi các Tông Đồ đã ưu tiên dồn hết tâm lực cho việc cầu nguyện và loan báo Tin Mừng, làm tròn sứ mệnh ngôn sứ Chúa trao, mới có thể tạo nên một cộng đoàn dân Chúa sống Đức Tin và Đức Ái gương mẫu, như giáo đoàn Côlôsê được thánh Phaolô khen: “Chúng tôi đã được nghe nói về lòng tin của anh em vào Đức Ki-tô Giê-su, và về lòng mến của anh em đối với toàn thể dân thánh ; niềm trông cậy anh em đã được nhờ nghe loan báo khi Lời Chân Lý là Tin Mừng đến với anh em ; Tin Mừng này đang sinh hoa trái và lớn lên trên toàn thế giới như thế nào, thì nơi anh em cũng vậy. chính anh em đã cho chúng tôi về lòng mến mà Thần Khí đã ban cho anh em” (Cl 1, 1-8: Bài đọc năm lẻ).
Ngày nay, nhìn vào các sinh hoạt trong Hội Thánh, rất tiếc nhiều chủ chăn đã đưa sứ mệnh Vương Đế đứng hàng thứ ba, lên vị trí thứ nhất, có ý tỏ uy quyền, chứ không lo ưu tiên chu toàn sứ mệnh tư tế và ngôn sứ. Do đó, không còn thiết tha giảng dạy, mà có giảng dân không muốn nghe, vì các ngài đã làm cho người ta sợ hơn là mến. Lãnh đạo mà chỉ dùng quyền cai trị, đáng bị thánh Phaolô khiển trách: “Anh em còn là những người sống theo tính xác thịt, theo người phàm! Đó là mầm mống sinh ra phe phái :“Người này nói: “Tôi thuộc phe ông Phao-lô” ; kẻ khác nói: “tôi thuộc phe ông Apolo”. Sinh ra phe phái như thế chỉ là người phàm tục, và thánh Tông Đồ nói: “Apolo là gì? Phao-lô là gì? Đó là những người tôi tớ giúp anh em có Đức Tin, mỗi người đã làm theo khả năng Chúa ban. Tôi trồng, anh Apolo tưới, nhưng Thiên Chúa mới làm cho lớn lên. Vì thế, kẻ trồng hay tưới chẳng là gì cả, nhưng Thiên Chúa Đấng làm cho lớn lên mới đáng kể”.
Thực vậy, một giáo xứ từ cha Sở đến Ban Hành Giáo chỉ dùng quyền để cai trị dân, thì chắc chắn sinh ra phe phái! Những người thuộc “phe cha”, thì ra sức bảo vệ cha, kẻ nào có ý kiến ngược lại với cha là kẻ không có đức vâng lời, nó là tay sai của satan chống phá giáo xứ ; trái lại, những người thuộc phe giáo dân, thì lại tìm lông bới vết “phe cha”, có khi đưa ra chính quyền kiện tụng nhau, nhục thật!
Để giải quyết vấn đề phe phái, ông Phao-lô cho ý kiến: Các chủ chăn chỉ là cộng sự viên của Thiên Chúa, còn giáo dân là cánh đồng của Thiên Chúa, thế nên các chủ chăn phải gieo hạt giống Lời vào cánh đồng tâm hồn giáo dân, và mọi người tưới ơn Chúa bằng lời cầu nguyện, thì mới có thể trở nên ngôi nhà đích thực của Thiên Chúa (x 1Cr 3,1-9: Bài đọc năm chẵn).
Ai sống “Ngày Làm Việc” giống Chúa Giê-su, để chu toàn sứ mệnh Cha trên trời trao phó, như Đức Giê-su nói: “Chúa sai tôi đi loan báo Tin Mừng cho người nghèo hèn, công bố cho kẻ bị giam cầm biết họ được tha” (Lc 4,18: Tung Hô Tin Mừng), thì người ấy đã “chọn Chúa làm gia nghiệp” (Tv 33/32,12b: ĐC năm chẵn), và phải luôn cầu nguyện: “Lạy Chúa, tôi tin cậy vào tình thương Chúa, mãi mãi đến muôn đời” (Tv 52/51, 10b: ĐC năm lẻ).
THUỘC LÒNG
Ai muốn làm việc giống Chúa Giê-su, phải ưu tiên theo thứ tự:
§         Đặt việc cầu nguyện quan trọng nhất.
§         Sau cầu nguyện là giảng Lời để nuôi linh hồn người ta.
§         Cuối cùng phục vụ nhu cầu thân xác mọi người. (Theo Lc 4,38-44)
Linh mục GIUSE ĐINH QUANG THỊNH 


Gửi phản hồi - thắc mắc

Tên của bạn *
Địa chỉ
Email *
Điện thoại
   
Câu hỏi

Lên đầu trang
Các bài giảng khác: