BÀI GIẢNG
ĐÓN NHẬN CHÂN LÝ LÀ ĐÓN NHẬN THIÊN CHÚA
Thiên Chúa đã phú bẩm
cho loài người ai cũng khao khát chân lý. Nhưng làm sao ta biết được chân lý để
đón nhận và đem ra thực hành ?
Các Bài đọc trong Thánh
Lễ hôm nay cho chúng ta ba tiêu chuẩn để đón nhận chân lý :
C Mọi người chỉ có một
Cha chung trên trời và Thầy dạy duy nhất là Đức Ki-tô.
C Đừng dựa vào Luật
Mô-sê để sống đạo hình thức giống nhiều người Do Thái giả hình.
C Cứ nhìn vào cách sống
của Đức Giê-su, ta mới biết sống đạo đích thực.
I. MỌI NGƯỜI CHỈ CÓ MỘT CHA CHUNG TRÊN TRỜI VÀ
THẦY DẠY DUY NHẤT LÀ ĐỨC KI-TÔ
Đức Giê-su dạy: “Anh em đừng gọi ai dưới đất này là cha của
anh em, vì anh em chỉ có một Cha là Cha trên trời. Anh em cũng đừng để ai gọi
mình là thầy, là người lãnh đạo, vì anh em chỉ có một vị lãnh đạo, là Đức Ki-tô”
(Mt 23,9-10: Tin Mừng).
Ở đây Đức Giê-su không
có ý dạy ai phá đổ tôn ti trật tự trong xã hội, để không còn biết ai là kẻ trên
người dưới. Chính các Tông Đồ cũng gọi các tín hữu là con của mình (x 1Cr
4,15.17 ; Gl 4,19 ; 2 Tm 1,2 ; 1Ga 2,1.12,14.18), anh em Tin Lành gọi thủ lãnh
của họ là mục sư (thầy chăm sóc), tiếng Pháp là Pasteur, danh này Đức Giê-su
dùng để chỉ về Ngài (x Ga 10,11) ; Anh
Giáo gọi vị thủ lãnh của họ là “người giúp việc”, tiếng Pháp là Ministre, cũng
có nghĩa là “bộ trưởng”.
Như vậy các Tông Đồ
xưng mình là cha đối với giáo dân, là có ý nói mọi Ki-tô hữu đã nhìn nhận các
ngài là cha sinh ra họ làm con Thiên Chúa. Chính ông Phao-lô nói với các tín
hữu thuộc giáo đoàn Corintho: “Bởi trong
Đức Giê-su Ki-tô, nhờ Tin Mừng, chính tôi đã sinh ra anh em” (1Cr 4,15).
Vậy Đức Giê-su chỉ có ý xác nhận: Mọi loại người trên trái đất, đặc biệt là
người Công Giáo được sinh ra bởi một Cha chung trên trời, và chỉ có một Thầy,
một Vị Lãnh Đạo duy nhất là Đức Giê-su Ki-tô. Nghĩa là chân lý chỉ phát xuất từ
Chúa Giê-su (x Mt 23,10 ; Ga 18,37c).
Do đó chỉ Chúa Giê-su
là Thầy dạy, Ngài hướng dẫn hết thảy mọi người, nhất là người Công Giáo phải
tôn trọng yêu thương đồng loại như anh em trong đại gia đình Hội Thánh, như
Chúa Giê-su đã yêu Hội Thánh.
II. ĐỪNG DỰA VÀO LUẬT MÔSÊ ĐỂ SỐNG ĐẠO HÌNH THỨC NHƯ
NHIỀU NGƯỜI DO THÁI GIẢHÌNH
Đức Giê-su nêu hai
khuôn mặt người sống đạo dựa vào Luật Mô-sê :
- Ký lục: Là người sao chép và dạy Luật Mô-sê, dưới mắt người Do
Thái, họ là thầy dạy chính thức hay là giáo lý viên rất mẫu mực.
- Biệt phái: Đây là loại người cuồng nhiệt, tin yêu Luật
Mô-sê. Họ giữ cặn kẽ từng chi tiết của Luật, bởi đó họ rất tự mãn là người công
chính, hay lên mặt khinh dể người khác (x Lc 18,9).
Hai loại người trên
thường khoe khoang cách sống đạo, họ:
1- Đeo thủ phù (x Mt 23,5b: Tin Mừng): Theo Luật Mô-sê trong sách Xh 13,9 ; Dnl
6,8, buộc mọi người vào giờ cầu nguyện phải đeo thủ phù trên trán, cột nơi cổ
tay, và đọc: “Lạy Chúa, Vua hoàn vũ, chúc
tụng Ngài đã thánh hóa chúng con bằng huấn lệnh Ngài, và đã truyền cho chúng
con mang lấy thủ phù này”.
Đây là một chiếc hộp
nhỏ làm bằng da, đựng bốn đoạn Kinh Thánh :
* Xh 13,1-10: Chúa phán: “Hãy thánh hiến cho Ta mọi con đầu lòng,
người cũng như loài vật, để nhớ ngày Ta đưa các ngươi ra khỏi Ai-cập về định cư
miền đất Canaan của dân ngoại mà Ta
đã cho các ngươi chiếm lấy. Các ngươi phải ăn bánh không men bảy ngày và kể lại
cho hậu thế những điều kỳ diệu Ta đã dùng cánh tay hùng mạnh thực hiện, để đưa
các ngươi ra khỏi cảnh nô lệ Ai-Cập”.
* Xh 13,11-16: Chúa phán: “Hãy dâng cho Ta các con đầu lòng, nhưng sau đó được chuộc lại, để nhớ
việc Ta đã giết các con đầu lòng của người Ai-cập, có thế chúng mới để các
ngươi được tự do đi thờ phượng Thiên Chúa” .
* Dnl 6,4-9: Chúa phán: “Các ngươi hãy yêu mến Thiên Chúa hết lòng hết sức, và ghi lòng tạc dạ,
hãy lặp đi lặp lại cho con cháu các ngươi nghe mọi nơi và mọi lúc”.
* Dnl 11,13-21: Chúa
phán: “Các ngươi hãy tuân giữ Luật
thì Ta sẽ cho mưa thuận gió hòa, để các ngươi có mùa thu hoạch hoa trái, Ta sẽ
cho cỏ mọc lên làm lương thực cho gia súc của các ngươi ăn. Các ngươi không
được thờ thần nào ngoài Ta. Nếu các ngươi không thi hành những Lời Ta dạy, tai
họa sẽ ập đến trên các ngươi”.
2- May dài tua áo (x Mt 23,5c: Tin Mừng):
Đó là một chùm lông bằng len hay lụa có nhiều màu sắc, đính vào bốn góc tấm vải
làm áo choàng của người Do Thái, mục đích nhắc nhở họ thường xuyên nhớ đến Luật
Chúa và đem ra thực hành (x Ds 15, 37-39). Chính áo choàng của Đức Giê-su cũng
đính chùm lông này (x Lc 8,44).
Hình thức sống đạo trên
đây nó giống như một tu phục, nhưng nhớ rằng “áo dòng không làm nên thày tu”,
đã nhập Dòng nào thì phải mang tu phục Dòng đó. Đó là kỷ luật của Dòng để nhắc
nhở cho một tu sĩ sống xứng đáng với ơn gọi. Nhưng có những tu sĩ đã lợi dụng
áo dòng để đóng kịch đạo đức, trở thành lối sống đạo giả hình. Thánh Phao-lô
cũng là một Biệt phái gương mẫu, chắc chắn ông cũng đeo thủ phù và có tua áo
dài, nhưng sau khi ông được thấm nhuần giáo lý của Thầy Giê-su, thì chính ông
lại gay gắt lên án loại người sống đạo giả hình theo Luật Mô-sê dạy, ông nói
với Ti-mô-thê, đồ đệ của ông: “Họ phản
trắc, nông nổi, lên mặt kiêu căng, yêu khoái lạc hơn yêu Thiên Chúa ; hình thức
đạo của họ còn giữ, nhưng cái chính yếu thì đã chối bỏ. Anh hãy xa lánh cả
những người ấy” (2 Tm 3,4-5).
Lối sống đạo hình thức
đó cũng giống như một kịch sĩ trên sân khấu, người diễn viên hoàn toàn phải làm
theo người đạo diễn, từ lời nói, cử chỉ, nó khác với căn tính của diễn viên. Ta
cứ nhìn diễn viên đóng vai Ngộ Không trong phim “Tây Du Ký”, anh ta là một người trí thức, có địa vị trong chính
quyền Trung Quốc, nhưng anh luyện tập, bắt chước những cử chỉ của khỉ thật
nhuần nhuyễn, ai nhìn anh diễn xuất cũng lấy làm tâm đắc: thật là giống khỉ !
Nhưng ai dám bảo anh là loài khỉ ? Rồi vì anh quá quen với những cử chỉ của khỉ,
đến nỗi trở thành như bản năng, vợ anh chịu không nổi, phải ra tòa ly dị !
Các Luật sĩ và Biệt
phái quá quen sống lề thói đeo thủ phù, may dài tua áo, trở thành những kẻ đóng
kịch đạo đức, Đức Giê-su phê bình loại người này: “Họ dạy người khác mà họ không làm, họ đặt những gánh nặng Lề Luật trên vai người khác, còn chính họ không
giơ ngón tay lay thử. Họ làm như thế
có ý để khoe khoang”, và chỉ mong được danh lợi: “Sính chỗ nhất trong tiệc tùng và chỗ danh dự nơi hội đường, cùng được
bái chào ngoài công trường và được người ta xưng hô là Rabbi: thầy” (x Mt
23,3-7: Tin Mừng).
Vì lối sống đạo của
Luật sĩ và Biệt phái giả hình như thế, nên Đức Giê-su lên tiếng nhắc nhở cho
mọi người: “Chớ có bắt chước !” (x Mt 23,3b: Tin Mừng).
3- Tìm chỗ nhất trong tiệc tùng và chỗ nhất nơi hội đường (x Mt 23,6: Tin Mừng). Chỗ nhất nơi hội đường là chỗ quay
mặt vào dân, xây lưng lại tráp Lề Luật (tráp Lề Luật đặt giữa chính diện hội
đường, tượng trưng cho nơi cung thánh của Đền Thờ Giê-ru-sa-lem có đặt hai bia
đá ghi Mười Giới Răn Chúa). Như thế, họ muốn mọi người phải tôn trọng danh dự
của họ như tôn trọng Luật Chúa.
4- Ưa được mọi người bái chào nơi công trường và được người
ta xưng hô là Rabbi (x Mt 23,7: Tin Mừng).
Danh hiệu Rabbi bởi tiếng Hy Bá là “Rab” có nghĩa là “Lớn”, thời Đức Giê-su lại
có nghĩa là “Chúa”. Người ta thường thêm một tiếp vĩ ngữ của ngôi thứ nhất
thành “Rabbi”, có nghĩa là “Chúa tôi”. Khi nói cách long trọng, người ta gọi là “Rabbuni” (x Ga 20,16), cũng
có nghĩa như chữ Rabbi, đây là danh tương đương với chức Tiến sĩ. Như thế, giới
này muốn mọi người phải kính trọng họ như Thiên Chúa.
Ta biết rằng người đi
không cầu có bóng, mà bóng vẫn theo ; người hô không cần nghe tiếng vọng, mà
tiếng vẫn dội lại. Ta cứ nhìn muôn tạo vật trong vũ trụ, Chúa ban cho chúng vẻ
đẹp, ai cũng tấm tắc khen ngợi, vì qua nó cho ta nhận ra dấu vết của Thiên
Chúa. Thánh Kinh nói về sự huy hoàng của muôn tạo vật vô tri: “Chẳng một lời một lẽ, chẳng nghe thấy âm
thanh, mà tiếng vang đã dội khắp hoàn cầu, và thông điệp loan đi tới chân trời
góc biển” (Tv 19/18,4-5). Vậy bạn hãy lo cho mình có tài có đức thật, chứ
đừng buồn vì người khác không biết đến tài đức của bạn!
Vào thời đệ nhị thế
chiến, nhà bác học lừng danh của thế kỷ 20 là Anh-tanh (Einstein), người gốc
Do-thái, từ nước Đức sang lánh nạn ở Mỹ. Khi mới đến đất Mỹ, bạn bè phê bình
ông không mặc y phục xứng với nhà trí thức, mà cứ trong bộ quần áo bình dân!
Ông Anh-tanh đáp: “Để làm gì ? Có ai biết
tôi là nhà bác học đâu?” Thời gian sau, những chương trình nghiên cứu khoa
học của ông đã nổi tiếng khắp nước Mỹ, bạn bè vẫn thấy ông trong bộ quần áo cũ,
người ta lại gạn hỏi: “Sao ông cứ mặc thứ y
phục ấy vậy?” Ông thản nhiên trả lời: “Có
sao đâu, vì ai ai cũng biết tôi là nhà bác học rồi mà!”
Như thế ông Anh-tanh đã
sống Lời Đức Giê-su dạy: “Sự khôn ngoan
của con người được minh chứng bằng công việc mình làm!” (Mt 11,19b).
III. CỨ NHÌN VÀO CÁCH SỐNG CỦA ĐỨC GIÊ-SU, TA MỚI
BIẾT SỐNG ĐẠO ĐÍCH THỰC
Cách sống của Đức
Giê-su dạy chúng ta: Muốn là người Công Giáo chính danh phải sống ba điểm giáo
lý này:
1/ Nhìn nhận mọi
người là anh em con một Cha trên trời:
Đức Giê-su nói: “Anh
em đừng gọi ai dưới đất là cha, hết thảy đều là anh em với nhau”
(Mt 23,8b-9: Tin Mừng). Thậm chí Đức Giê-su là Thiên Chúa Ngôi Hai, khi làm
người, Ngài gọi Thiên Chúa Ngôi Nhất là Cha và gọi các môn đệ là anh em, nghĩa là các môn đệ và Đức Giê-su đều có một
Cha chung trên trời.
Vì mọi người có chung một Cha trên trời, nên không ai được khinh dể hoặc thống trị người anh em.
Phải sống tinh thần anh em xum họp một nhà, như lời kinh ta hằng đọc: “Ngọt ngào tốt đẹp lắm thay, anh em được sống
vui vầy bên nhau” (Tv 133/132,1).
2/ Sống đạo không
lây nhiễm “men Biệt phái”, nhưng sống nhờ “men Giêsu”
Đức Giê-su dạy mọi
người đừng bắt chước lối sống đạo giả hình của Biệt phái (x Mt 23,3b: Tin
Mừng), nghĩa là ta phải bắt chước lối sống của Ngài.
BIỆT PHÁI
|
CHÚA GIÊSU
|
- Biệt phái dạy mà
không làm (x Mt 23,3)
|
+ Đức Giê-su làm
rồi mới dạy (x Cv 1,1).
|
-
Biệt phái bó gánh nặng Lề Luật chất trên vai người khác, còn chính họ
không giơ ngón tay lay thử (x Mt 23,4).
|
+ Đức Giê-su nâng
đỡ bổ sức cho những ai mang ách và gánh vác
nặng nề (x Mt 11,25).
|
- Biệt phái khoe
khoang công đức (x Mt 23,5).
|
+ Đức Giê-su cấm
người nhận ơn Ngài nói về Ngài (x Mc 1,46).
|
- Biệt phái chiếm
chỗ nhất trong bàn tiệc (x Mt 23,6a).
|
+ Đức Giê-su trở
nên kẻ nô lệ phục vụ mọi người trong bàn tiệc (x Ga 13,6).
|
- Biệt phái khóa cửa
Nước Trời, chặn lối không cho người ta vào (x Mt 23,13).
|
+ Đức Giê-su mở
cửa Trời cho tội nhân biết sám hối xin theo Ngài (x Lc 23,43).
|
- Biệt phái chinh
phục người tòng giáo rồi biến họ thành con cái hỏa ngục gấp đôi (x Mt 23,15).
|
+ Đức Giê-su chinh
phục Phao-lô, biến ông từ một kẻ ác hơn sói trở thành người phục vụ Tin Mừng
đắc lực và Ngài ân cần chăm sóc mọi người như gà mẹ ấp ủ con dưới cánh (x Cv
9 ; Cv 20,17t ; Lc 13,34).
|
Đúng là “mọi người chỉ có một Thầy, một Vị Chỉ Đạo là
Đức Kitô” (Mt 23,9b.10b:Tung
Hô Tin Mừng)
Chúa đòi hết mọi loại
người trên mặt đất muốn đón nhận được chân lý, phải lấy Lời Chúa Giê-su dạy qua
Hội Thánh làm tiêu chuẩn, làm thước đo. Có khi ta nghe chủ chăn trong Hội Thánh
giảng dạy rất tuyệt vời vì dựa vào Thánh Kinh, theo quy luật giảng của Hiến Chế
Phụng Vụ số 24,35,52, nhưng đời sống của họ nghịch với lời họ rao giảng, Chúa
vẫn bắt ta phải nghe lời họ giảng dạy và đem thực hành, như Đức Giê-su nói với
các môn đệ: “Khi các Luật sĩ ngồi tòa
Mô-sê giảng dạy, các ngươi phải nghe
và thực hành, nhưng đừng làm theo hành vi của họ, vì họ nói mà không làm”
(Mt 23,3: Tin Mừng). Do đó, dù là lời cha mẹ dạy dỗ con mà tư tưởng lại nghịch
với giáo huấn của Hội Thánh, thì Chúa
cũng không cho phép ta tùng phục. Đó là lý do Đức Giê-su nói: “Ta đến không đem bình an nhưng đem gươm
giáo, con cái chống cha mẹ, cha mẹ chống con cái” (Mt 10,34-36). Ông
Gionathan, con vua Saolê đã sống chân lý này: Ông bênh vực Đavid, chống lại ý
định vua cha mưu kế hạ sát Đavid chỉ vì ghen tương, ông bằng lòng mang tiếng
bất hiếu, có lần vua cha đã phóng giáo nhằm giết Gionathan, chỉ vì Gionathan coi
trọng Đavid hơn vua cha, và như thế Gionathan chấp nhận mất quyền nối ngôi vua
(x 1Sm 20). Bởi vậy chúng ta phải khiêm
tốn đón nhận chân lý bất cứ từ phía nào tới, dù người đó là con nít hay
người lớn, trí thức hay vô học, thù hay bạn, nếu ở nơi họ có những điều đúng với giáo huấn của
Hội Thánh dạy, thì đó là ta đón nhận được chân lý, đón nhận chính Chúa, chống
chân lý là loại trừ Thiên Chúa (x Lc 10,16). Thậm chí ta còn phải học nơi quỷ,
vì nó tin Thiên Chúa hơn nhiều người, và nó đã nói cho mọi người biết Đức
Giê-su là Đấng Thánh của Thiên Chúa (x Gc 2,19 ; Mc 1,24).
3/ Sống khiêm nhường phục vụ giống Thày Giêsu.
Đức Giê-su dạy: “Trong anh em, người làm lớn hơn cả, phải làm
người phục vụ anh em.1Ai tôn mình lên, sẽ bị hạ xuống; còn ai hạ
mình xuống, sẽ được tôn lên” (Mt 23,11-12: Tin Mừng).
Đức Giê-su muốn mọi
người phải được làm lớn tức là nên hoàn hảo theo mẫu Cha trên trời (x Mt 5,48),
mà ai thấy Đức Giê-su là thấy Chúa Cha (x Ga 14,9). Khi Chúa dựng nên loài
người, Ngài nói: “Chúng Ta hãy dựng nên
loài người giống Chúng Ta” (St 1,26), không phải là giống Thiên Chúa thiêng
liêng vô hình, mà mọi người phải đi con đường phục vụ Đức Giê-su đã đi (x 1Ga 2,6).
Đời sống phục vụ của
Đức Giê-su đã nối dài, mở rộng làm hoàn hảo giá trị Phụng Vụ của các bậc tổ
tiên làm nên gia phả của Ngài: “Ông Bô-át
lấy bà Rut sinh Ô-vết, Ô-vết sinh Gie-sê, Gie-sê sinh Đavid, mà Đức Giê-su là
con cháu của vua Đavid” (Mt 1,5-6.1a).
“Rút, người Mô-áp, nói
với bà Na-o-mi: "Xin mẹ để con đi ra ruộng mót lúa đằng sau người nào có
lòng nhân từ đoái nhìn con." Bà trả lời: "Con cứ đi đi." Nàng đi
và đến ruộng mót lúa đằng sau thợ gặt. Nàng may mắn gặp được một thửa ruộng của
ông Bô-át. Ông Bô-át nói với Rút: "Này con, con có nghe không? Đừng đi mót
ở ruộng nào khác, cũng đừng rời khỏi đây, nhưng cứ theo sát các tớ gái của ta.
Con nhìn thửa ruộng chúng gặt và cứ đi theo chúng. Nào ta đã chẳng ra lệnh cho
các tôi tớ không được đụng tới con sao? Nếu khát, con cứ đến chỗ để bình mà
uống nước các tôi tớ đã múc."Rút liền cúi rạp xuống đất mà lạy ông, rồi
nói: "Sao con lại được ông lấy lòng nhân từ đoái nhìn và quan tâm đến, dù
con là một người ngoại quốc? " Ông Bô-át đáp: "Người ta đã kể lại cho
ta nghe tất cả những gì con đã làm cho mẹ chồng sau khi chồng con mất, cũng như
chuyện con đã bỏ cả cha mẹ và quê hương, mà đến với một dân trước kia con không
hề biết tới.
Vậy ông Bô-át lấy cô
Rút, nàng đã thụ thai và sinh một con trai. Các phụ nữ nói với bà Na-o-mi:
"Chúc tụng Đức Chúa, Đấng hôm nay đã không để cho bà phải thiếu người bảo
tồn dòng dõi: tên tuổi con trẻ sẽ được tung hô tại Ít-ra-en! Nó sẽ giúp bà lấy
lại sức sống, và sẽ là người nâng đỡ bà trong tuổi già, vì người con dâu biết
yêu quý bà đã sinh ra nó, nàng quý giá hơn bảy đứa con trai." Họ đặt tên
cho nó là Ô-vết. Đó là cha của ông Gie-sê, là ông nội vua Đa-vít.” (Rut 2,
2-3.8-11 ; 4, 13-17: Bài đọc năm lẻ). Đó là “phúc lộc dành cho kẻ kính sợ Người” (Tv 128/127,4: ĐC năm lẻ).
Ai sống được ba điểm
giáo lý Đức Giê-su dạy trên đây, thì được Chúa ngự trong tâm hồn, như thị kiến
của ngôn sứ Êzekiel (Ed 34,1-7a: Bài đọc năm chẵn)
- “Người đưa tôi đi tới cổng phía
Đông”: Đó là vinh quang của Chúa Giê-su tiến vào Phụng Vụ của Hội Thánh,
để qua Phụng Vụ vinh quang Chúa tiến vào tâm hồn các Ki-tô hữu đến tham dự. Vì
Chúa Giê-su chính là “Vầng Đông từ chốn
cao vời viếng thăm ta” (Lc 1,78).
- “Vinh quang của Thiên Chúa tiến
vào Đền Thờ qua cổng quay về hướng Đông, và này vinh quang Chúa tràn ngập Đền
Thờ”: Tức là mỗi khi ta đến dự Phụng Vụ của Hội Thánh, Lời Chúa làm cho
ta được rạng ngời vinh quang hơn thuở xưa ông Mô-sê lên núi Sinai đón nhận Lời
Chúa (x 2Cr 3,18 ; Xh 34, 33-35).
- “Đấng ấy phán với tôi: hỡi con
người, đây là nơi Ta đặt ngai của Ta, đây là nơi Ta đặt các bàn chân của Ta, Ta
sẽ ngự nơi đây giữa con cái Israel cho đến muôn đời”: Nghĩa là nhờ tham
dự Phụng Vụ, Chúa ở cùng ta là Đền Thờ đích thực của Ngài ưa chuộng (x 1Cr 3,16).
Đúng với lời kinh ta đọc: “Vinh quang của Chúa hằng chiếu tỏa trên đất
nước chúng ta” (Tv 85/84,10b: ĐC năm chẵn)
THUỘC LÒNG
Đón nhận chân lý là đón nhận Chúa Giêsu, khước từ chân lý
là khước từ Chúa Giêsu, vì chỉ nơi Chúa Giê-su mới có chân lý
(theo Mt 23,10 ; Ga 18,37c).
Linh mục GIUSE ĐINH QUANG THỊNH