BÀI GIẢNG
DỰ LỄ LÀ YÊU CHÚA, YÊU NGƯỜI NHẤT
Để trả
lời câu hỏi cho một Luật sĩ trong nhóm có mặt chống đối Đức Giê-su: “Giới răn nào trọng nhất trong Lề Luật ?”
(x Mt 22,34-35: Tin Mừng). Cũng chính là cho biết phải thực thi Giới răn nào trọng
yếu, cột trụ của Đạo trong 613 Luật
Mô-sê?
Xưa
Thiên Chúa chỉ trao cho ông Mô-sê Mười Điều răn ghi trên hai bia đá (Đệ nhất Luật)
Nhưng từ Mười Điều răn ấy đã được cắt nghĩa ra 613 Luật (Đệ nhị Luật) gồm có:
° 365 điều xấu cấm làm. Ngụ ý nói: ngày nào trong năm cũng phải
tránh xa điều xấu.
° 248 điều tốt cần làm. Đó là tổng số xương trong cơ thể con người,
ám chỉ muốn sống đúng nghĩa người ta phải làm điều tốt.
Trong
tâm tình tôn giáo của người Do Thái, dĩ nhiên phải nhắm đến Luật yêu Chúa đặt đứng
hàng đầu và được diễn tả cụ thể: “Yêu
Chúa hết lòng, hết linh hồn, hết trí khôn,
hết sức lực.” (Dnl 6,5). Đến như bà Rut, dù là dân ngoại cũng đã nhận ra
giá trị phải yêu Chúa trên hết, nên bà sẵn lòng hy sinh tuổi thanh xuân, quyết
tâm chịu ở góa để theo mẹ chồng có đạo thờ Thiên Chúa, chứ không theo chị dâu,
cũng lâm cảnh góa bụa đã về quê ngoại để tái giá, cả khi bà Na-o-mi, mẹ chồng,
động viên Rut nên theo chị dâu, thì Rut đã thưa lại: “Xin mẹ đừng ép con bỏ mẹ mà trở về, không theo mẹ nữa, vì mẹ đi đâu,
con đi đó, mẹ ở đâu, con ở đó, dân là của mẹ là dân của con, Thiên Chúa của mẹ
là Thiên Chúa của con” (Rut 1,16: Bài đọc năm lẻ). Nhờ Đức Tin này mà bà
Rut đã được ghi danh vào gia phả của Chúa Giê-su (x Mt 1,5). Nhất là đối với
người Do Thái, Luật yêu Chúa phải được thể hiện bằng việc tôn thờ Thiên Chúa là
Đấng duy nhất, vượt trên mọi thần thánh, nên Luật này phải đứng hàng đầu trong
các Luật, và trở thành kinh “Shema”, mà người Do Thái, từ trẻ nhỏ đến người già
mỗi ngày đọc hai lần (giống Kinh Lạy Cha nay ta đọc ba lần trong kinh Phụng Vụ
mỗi ngày: Thánh lễ, kinh Sáng, kinh Chiều). Vì lời cầu nguyện của dân Chúa luôn
luôn phải là “ca tụng Chúa đi, hồn tôi hỡi”
(Tv 146/145,1: ĐC năm lẻ).
Thế
nhưng để được cứu độ, không phải chỉ đọc kinh mà còn phải thực hành lời kinh,
chứ không phải chỉ kêu “lạy Chúa, lạy
Chúa”, thì thật là vô ích! (x Mt 7,21). Chính Chúa Giê-su đã sống diễn tả lời
kinh “Shema” cách cụ thể vào ngày Thứ Sáu Tuần Thánh:
1- “Yêu
Chúa hết trí khôn” (Mt 22,37c): Người mất trí khôn là kẻ điên
khùng ! Qủa thật, “cái chết của Chúa
Giê-su đối với kẻ đang hư đi là sự điên rồ.” (1Cr 1,18)
2- “Yêu
Chúa hết linh hồn” (Mt 22,37b): Trên thập giá, Ngài đã hiến dâng
cả mạng sống, cuối cùng là “dâng hồn Con
trong tay Cha.” (Lc 23,46)
3- “Yêu
Chúa hết lòng” (Mt 22,37a): Tim Ngài bị đâm thủng, máu và nước
đổ ra để rửa tội (nước) và nuôi sống nhân loại bằng Thánh Thể (máu) [x Ga
19,34].
Như vậy
Chúa Giê-su thực hành Giới răn Yêu Chúa khi Ngài hiến dâng chính mình làm Hy Tế
mới cứu độ loài người, và như thế ta đọc
kinh “Shema” mới chỉ là mến Chúa trên đầu môi chót lưỡi: “Lạy Chúa, lạy Chúa !” Không có giá trị
gì, chỉ khi ta đi con đường với Đức Giê-su đã đi (x 1Ga 2,6). Tức là thực thi lời
kinh này cùng với Chúa Giê-su, là ta làm hiện tại hóa tình yêu của Ngài đã diễn
tả trong ngày Thứ Sáu Tuần Thánh, cụ thể là lúc ta đi dâng Lễ, là “thực
hành Giới răn Yêu Người như chính
mình. Toàn thể Lề Luật cùng các ngôn sứ đều quy vào hai giới răn Mến Chúa, Yêu
người chỉ là một” (Mt 22,39-40: Tin Mừng). Có như thế ta mới tập họp về cho
Chúa “những người trung hiếu, những người
đã giao ước với Chúa bằng Hy Lễ” (Tv 50/49,5).
Khi đã
hiểu như trên, cho ta xác tín rằng: Hy Lễ của Đức Giê-su minh chứng cho giá trị
Lời Ngài nói: “Tôi đến không phải để hủy
bỏ Lề luật, mà là để làm trọn ý nghĩa giá trị Lề Luật” (Mt 5,17). Tức là Hy
Lễ của Đức Giê-su thay thế lối tế tự trong Phụng Vụ Do Thái giáo, vì chỉ nhờ Hy Tế Đức Giê-su mới làm hoàn hảo bổn phận
loài người phải tôn thờ Thiên Chúa, như Đức Giê-su đã nói: “Ngay bây giờ, kẻ thờ phượng đích thực, sẽ thờ
phượng Chúa Cha trong Thần Khí và sự thật, vì Cha chỉ muốn gặp thấy những kẻ thờ
phượng Người như thế” (Ga 4,23). Yêu Chúa yêu người đạt đích, chính là làm
cho đồng loại thoát tay tử thần để được sống hạnh phúc dồi dào, thì chỉ nhờ hiệu
quả Hy Tế Chúa Giê-su mới làm cho kẻ chết sống lại, vì “chỉ có người sống mới ca tụng
Thiên Chúa” (Is 38,19). Chúa đã dùng miệng ngôn sứ Êzekiel báo trước
giá trị Hy Tế Chúa Giê-su thiết lập: “Tay Đức Chúa đặt
trên tôi, Ngài dùng Thần Khí đem tôi đặt giữa thung lũng đầy xương cốt đã khô
đét. Bấy giờ Người phán bảo tôi :
“Ngươi hãy tuyên sấm trên các xương ấy ;
ngươi hãy bảo chúng: các xương khô kia ơi, hãy nghe Lời Đức Chúa. Đây Ta sắp
cho Thần Khí nhập vào các ngươi, và các ngươi sẽ được sống”. Tôi đã tuyên sâm
như tôi được lệnh, các xương xích lại gần ăn khớp với nhau. Tôi nhìn thấy trên
chúng đã có gân ; thịt đã mọc lên và da đã trải ra bên trên, nhưng Thần Khí
chưa có ở nơi chúng. Lúc ấy Chúa Thượng phán thế này: Từ bốn phương trời hỡi Thần
Khí (bốn Tin Mừng) hãy đến thổi vào những người đã chết này cho chúng được hồi
sinh. Đó là cả một đạo quân lớn đông vô kể. Các xương đó chính là toàn thể nhà
Israel trong lúc chúng tuyệt vọng vì đã chết khô, thì Ta đã mở huyệt cho các
ngươi, Ta cho các ngươi định cư trên đất của các ngươi (Hội Thánh – Thiên
Đàng), bấy giờ các ngươi sẽ nhận biết chính Ta là Đức Chúa, Ta đã phán là Ta
làm” (Ed 37,1-14: Bài đọc năm chẵn).
Bởi thế,
“hãy tạ ơn Chúa vì Chúa nhân từ, muôn
ngàn đời Chúa vẫn trọn tình thương” (Tv 107/106,1b: ĐC năm chẵn).
Vậy “lạy Thiên Chúa con thờ, lối đi của Ngài xin
chỉ bảo con. Dẫn con đi theo đường chân lý của Ngài” (Tv 25/24,4b.5a: Tung
Hô Tin Mừng).
THUỘC LÒNG
Đức
Giê-su nói: “Thầy ban cho anh em một điều răn mới là hãy
yêu thương nhau, như Thầy yêu thương anh em” (Ga 13,34).
Linh mục GIUSE ĐINH QUANG THỊNH