Kinh Thánh
Thời kỳ
Sách
Chương
 
      Lm. Trịnh Ngọc Danh
Bài giảng
THỨ SÁU SAU CN 20 TN-NĂM LẺ: DỰ LỄ LÀ YÊU CHÚA, YÊU NGƯỜI NHẤT
Âm thanh
Video
[ Bấm play 2 lần liên tiếp để xem video. Vui lòng chờ chút nếu kết nối mạng chậm ]
BÀI ĐỌC 1 VÀ 2 (NẾU CÓ)
BÀI ĐỌC: Rut 1, 1.3-6.14b-16.22
1 Vào thời các thủ lãnh cai trị, một nạn đói xảy ra trong xứ. Có một người tên là Ê-li-me-léc, cùng với vợ là Na-o-mi và hai con trai bỏ Bê-lem miền Giu-đa đến lập cư trong cánh đồng Mô-áp. 3 Sau đó người chồng chết đi, còn lại bà vợ và hai người con. 4 Hai người này lấy vợ Mô-áp, một cô tên là Oóc-pa, cô kia tên là Rút. Họ ở lại đó chừng mười năm. 5 Một thời gian sau, cả hai người con trai đều chết, còn lại bà Na-o-mi mất chồng, mất con. 6 Bà lên đường cùng với hai người con dâu, bỏ cánh đồng Mô-áp mà trở về quê hương, vì tại cánh đồng Mô-áp, bà nghe nói là ĐỨC CHÚA đã viếng thăm dân Người và cho họ có bánh ăn.
14b Oóc-pa ôm hôn từ giã mẹ chồng, còn Rút thì cứ khắng khít theo bà.
15 Bà Na-o-mi nói: “Kìa chị dâu con trở về với dân tộc của nó và các thần của nó. Con cũng vậy, hãy theo chị dâu con mà về đi !” 16 Rút đáp: “Xin mẹ đừng ép con bỏ mẹ mà trở về, không theo mẹ nữa, vì mẹ đi đâu, con đi đó, mẹ ở đâu, con ở đó,dân của mẹ là dân của con, Thiên Chúa của mẹ là Thiên Chúa của con.”
22 Thế là từ cánh đồng Mô-áp, bà Na-o-mi trở về cùng với con dâu người Mô-áp là Rút. Họ đã đến Bê-lem vào đầu mùa gặt lúa mạch.
ĐÁP CA: Tv 145
Đ.     Ca tụng Chúa đi,  hồn tôi hỡi! (c 1b)
5 Phúc thay người được Chúa Trời nhà Gia-cóp phù hộ và cậy trông CHÚA, Thiên Chúa họ thờ.
6a Người là Đấng tạo thành trời đất với biển khơi cùng muôn loài trong đó.
6b Người là Đấng giữ lòng trung tín mãi muôn đời, 7a xử công minh cho người bị áp bức, ban lương thực cho kẻ đói ăn.
7b CHÚA giải phóng những ai tù tội, 8 CHÚA mở mắt cho kẻ mù loà. CHÚA cho kẻ bị dìm xuống đứng thẳng lên, CHÚA yêu chuộng những người công chính.
9 CHÚA phù trợ những khách ngoại kiều, Người nâng đỡ cô nhi quả phụ, nhưng phá vỡ mưu đồ bọn ác nhân. 10 CHÚA nắm giữ vương quyền muôn muôn thuở, Xi-on hỡi, Chúa Trời ngươi hiển trị ngàn đời.  
BÀI TIN MỪNG
TUNG HÔ TIN MỪNG: Tv 24,4b.5a
Hall-Hall: Lạy Thiên Chúa con thờ, lối đi của Ngài, xin chỉ bảo con. Xin dẫn con đi theo đường chân lý của Ngài. Hall.
TIN MỪNG: Mt 22, 34-40
34 Khi nghe tin Đức Giê-su đã làm cho nhóm Xa-đốc phải câm miệng, thì những người Pha-ri-sêu họp nhau lại. 35 Rồi một người thông luật trong nhóm hỏi Đức Giê-su để thử Người rằng: 36 “Thưa Thầy, trong sách Luật Mô-sê, điều răn nào là điều răn trọng nhất ?” 37 Đức Giê-su đáp: “Ngươi phải yêu mến Đức Chúa, Thiên Chúa của ngươi, hết lòng, hết linh hồn và hết trí khôn ngươi. 38 Đó là điều răn quan trọng nhất và điều răn thứ nhất. 39 Còn điều răn thứ hai, cũng giống điều răn ấy, là: ngươi phải yêu người thân cận như chính mình. 40 Tất cả Luật Mô-sê và các sách ngôn sứ đều tuỳ thuộc vào hai điều răn ấy.” 
BÀI GIẢNG
DỰ LỄ LÀ YÊU CHÚA, YÊU NGƯỜI NHẤT 
Để trả lời câu hỏi cho một Luật sĩ trong nhóm có mặt chống đối Đức Giê-su: “Giới răn nào trọng nhất trong Lề Luật ?” (x Mt 22,34-35: Tin Mừng). Cũng chính là cho biết phải thực thi Giới răn nào trọng yếu, cột trụ của  Đạo trong 613 Luật Mô-sê?
Xưa Thiên Chúa chỉ trao cho ông Mô-sê Mười Điều răn ghi trên hai bia đá (Đệ nhất Luật) Nhưng từ Mười Điều răn ấy đã được cắt nghĩa ra 613 Luật (Đệ nhị Luật) gồm có:
°      365 điều xấu cấm làm. Ngụ ý nói: ngày nào trong năm cũng phải tránh xa điều xấu.
°    248 điều tốt cần làm. Đó là tổng số xương trong cơ thể con người, ám chỉ muốn sống đúng nghĩa người ta phải làm điều tốt.
Trong tâm tình tôn giáo của người Do Thái, dĩ nhiên phải nhắm đến Luật yêu Chúa đặt đứng hàng đầu và được diễn tả cụ thể: “Yêu Chúa hết lòng, hết linh hồn, hết trí khôn, hết sức lực.” (Dnl 6,5). Đến như bà Rut, dù là dân ngoại cũng đã nhận ra giá trị phải yêu Chúa trên hết, nên bà sẵn lòng hy sinh tuổi thanh xuân, quyết tâm chịu ở góa để theo mẹ chồng có đạo thờ Thiên Chúa, chứ không theo chị dâu, cũng lâm cảnh góa bụa đã về quê ngoại để tái giá, cả khi bà Na-o-mi, mẹ chồng, động viên Rut nên theo chị dâu, thì Rut đã thưa lại: “Xin mẹ đừng ép con bỏ mẹ mà trở về, không theo mẹ nữa, vì mẹ đi đâu, con đi đó, mẹ ở đâu, con ở đó, dân là của mẹ là dân của con, Thiên Chúa của mẹ là Thiên Chúa của con” (Rut 1,16: Bài đọc năm lẻ). Nhờ Đức Tin này mà bà Rut đã được ghi danh vào gia phả của Chúa Giê-su (x Mt 1,5). Nhất là đối với người Do Thái, Luật yêu Chúa phải được thể hiện bằng việc tôn thờ Thiên Chúa là Đấng duy nhất, vượt trên mọi thần thánh, nên Luật này phải đứng hàng đầu trong các Luật, và trở thành kinh “Shema”, mà người Do Thái, từ trẻ nhỏ đến người già mỗi ngày đọc hai lần (giống Kinh Lạy Cha nay ta đọc ba lần trong kinh Phụng Vụ mỗi ngày: Thánh lễ, kinh Sáng, kinh Chiều). Vì lời cầu nguyện của dân Chúa luôn luôn phải là “ca tụng Chúa đi, hồn tôi hỡi” (Tv 146/145,1: ĐC năm lẻ).
Thế nhưng để được cứu độ, không phải chỉ đọc kinh mà còn phải thực hành lời kinh, chứ không phải chỉ kêu “lạy Chúa, lạy Chúa”, thì thật là vô ích! (x Mt 7,21). Chính Chúa Giê-su đã sống diễn tả lời kinh “Shema” cách cụ thể vào ngày Thứ Sáu Tuần Thánh:
1- “Yêu Chúa hết trí khôn” (Mt 22,37c): Người mất trí khôn là kẻ điên khùng ! Qủa thật, “cái chết của Chúa Giê-su đối với kẻ đang hư đi là sự điên rồ.” (1Cr 1,18)
2- “Yêu Chúa hết linh hồn” (Mt 22,37b): Trên thập giá, Ngài đã hiến dâng cả mạng sống, cuối cùng là “dâng hồn Con trong tay Cha.” (Lc 23,46)
3- “Yêu Chúa hết lòng” (Mt 22,37a): Tim Ngài bị đâm thủng, máu và nước đổ ra để rửa tội (nước) và nuôi sống nhân loại bằng Thánh Thể (máu) [x Ga 19,34].
Như vậy Chúa Giê-su thực hành Giới răn Yêu Chúa khi Ngài hiến dâng chính mình làm Hy Tế mới cứu độ loài người, và như thế ta đọc kinh “Shema” mới chỉ là mến Chúa trên đầu môi chót lưỡi: “Lạy Chúa, lạy Chúa !” Không có giá trị gì, chỉ khi ta đi con đường với Đức Giê-su đã đi (x 1Ga 2,6). Tức là thực thi lời kinh này cùng với Chúa Giê-su, là ta làm hiện tại hóa tình yêu của Ngài đã diễn tả trong ngày Thứ Sáu Tuần Thánh, cụ thể là lúc ta đi dâng Lễ, là “thực hành Giới răn Yêu Người như chính mình. Toàn thể Lề Luật cùng các ngôn sứ đều quy vào hai giới răn Mến Chúa, Yêu người chỉ là một” (Mt 22,39-40: Tin Mừng). Có như thế ta mới tập họp về cho Chúa “những người trung hiếu, những người đã giao ước với Chúa bằng Hy Lễ” (Tv 50/49,5).
Khi đã hiểu như trên, cho ta xác tín rằng: Hy Lễ của Đức Giê-su minh chứng cho giá trị Lời Ngài nói: “Tôi đến không phải để hủy bỏ Lề luật, mà là để làm trọn ý nghĩa giá trị Lề Luật” (Mt 5,17). Tức là Hy Lễ của Đức Giê-su thay thế lối tế tự trong Phụng Vụ Do Thái giáo, vì chỉ nhờ  Hy Tế Đức Giê-su mới làm hoàn hảo bổn phận loài người phải tôn thờ Thiên Chúa, như Đức Giê-su đã nói: “Ngay bây giờ, kẻ thờ phượng đích thực, sẽ thờ phượng Chúa Cha trong Thần Khí và sự thật, vì Cha chỉ muốn gặp thấy những kẻ thờ phượng Người như thế” (Ga 4,23). Yêu Chúa yêu người đạt đích, chính là làm cho đồng loại thoát tay tử thần để được sống hạnh phúc dồi dào, thì chỉ nhờ hiệu quả Hy Tế Chúa Giê-su mới làm cho kẻ chết sống lại, vì “chỉ có người sống mới ca tụng Thiên Chúa” (Is 38,19). Chúa đã dùng miệng ngôn sứ Êzekiel báo trước giá trị Hy Tế Chúa Giê-su thiết lập: “Tay Đức Chúa đặt trên tôi, Ngài dùng Thần Khí đem tôi đặt giữa thung lũng đầy xương cốt đã khô đét. Bấy giờ Người phán bảo tôi :
Ngươi hãy tuyên sấm trên các xương ấy ; ngươi hãy bảo chúng: các xương khô kia ơi, hãy nghe Lời Đức Chúa. Đây Ta sắp cho Thần Khí nhập vào các ngươi, và các ngươi sẽ được sống”. Tôi đã tuyên sâm như tôi được lệnh, các xương xích lại gần ăn khớp với nhau. Tôi nhìn thấy trên chúng đã có gân ; thịt đã mọc lên và da đã trải ra bên trên, nhưng Thần Khí chưa có ở nơi chúng. Lúc ấy Chúa Thượng phán thế này: Từ bốn phương trời hỡi Thần Khí (bốn Tin Mừng) hãy đến thổi vào những người đã chết này cho chúng được hồi sinh. Đó là cả một đạo quân lớn đông vô kể. Các xương đó chính là toàn thể nhà Israel trong lúc chúng tuyệt vọng vì đã chết khô, thì Ta đã mở huyệt cho các ngươi, Ta cho các ngươi định cư trên đất của các ngươi (Hội Thánh – Thiên Đàng), bấy giờ các ngươi sẽ nhận biết chính Ta là Đức Chúa, Ta đã phán là Ta làm” (Ed 37,1-14: Bài đọc năm chẵn).
Bởi thế, “hãy tạ ơn Chúa vì Chúa nhân từ, muôn ngàn đời Chúa vẫn trọn tình thương” (Tv 107/106,1b: ĐC năm chẵn).
Vậy “lạy Thiên Chúa con thờ, lối đi của Ngài xin chỉ bảo con. Dẫn con đi theo đường chân lý của Ngài” (Tv 25/24,4b.5a: Tung Hô Tin Mừng).
THUỘC LÒNG
Đức Giê-su nói: Thầy ban cho anh em một điều răn mới là hãy yêu thương nhau, như Thầy yêu thương anh em” (Ga 13,34).
Linh mục GIUSE ĐINH QUANG THỊNH

 

Gửi phản hồi - thắc mắc

Tên của bạn *
Địa chỉ
Email *
Điện thoại
   
Câu hỏi

Lên đầu trang
Các bài giảng khác: