BÀI GIẢNG
HOÂN NHAÂN COÂNG GIAÙO
Để nắm vững giáo lý Hôn Nhân Công
Giáo, ta hãy lắng nghe và tìm hiểu Đức Giê-su trả lời thắc mắc về hôn nhân của
người Biệt phái và môn đệ Ngài.
A. ĐỨC GIÊ-SU TRẢ LỜI THẮC MẮC CHO NGƯỜI BIỆT PHÁI ĐẶT
CÂU HỎI:
-
Về vấn đề ly dị.
-
Về vấn đề ông Mô-sê cho phép ly dị.
I. VỀ VẤN ĐỀ LY DỊ.
Người Biệt phái đến gặp Đức Giê-su
và hỏi thử Ngài: "Thưa Thầy, có được
phép rẫy vợ mình vì bất cứ lý do nào không? "Người đáp: "Các ông không đọc thấy điều này sao:
"Thuở ban đầu, Đấng Tạo Hoá đã làm ra con người có nam có nữ",và
Người đã phán: "Vì thế, người ta sẽ lìa cha mẹ mà gắn bó với vợ mình, và
cả hai sẽ thành một xương một thịt." Như vậy, họ không còn là hai, nhưng
chỉ là một xương một thịt. Vậy, sự gì Thiên Chúa đã phối hợp, loài người không
được phân ly." (Mt 19, 3-6: Tin Mừng).
Như vậy câu trả
lời của Đức Giê-su: cấm không được ly dị vì hai lý do
1/
Một vợ một chồng Chúa đã thiết định từ thuở ban đầu là tốt đẹp(x Mt 19,4: Tin Mừng), loài người không được phép thay
đổi ý định tốt đẹp của Thiên Chúa. Thế mà thời Cựu Ước Luật Môsê cho phép người
nam lấy nhiều vợ hoặc cho phép rẫy vợ để lấy vợ khác. Nhưng Đức Giêsu xác định:
“Đó không phải là ý muốn của ông Môsê,
nhưng vì lòng chai dạ đá của dân mà ông Môsê phải chấp nhận, vì ông biết trái ý
Chúa từ thuở ban đầu” (x Mt 19,8: Tin Mừng), nhìn vào thực tế ,đa thê quả
là gương xấu,đã gây nhiều tai họa. Cụ thể: Vua Đavid được danh là tiền thân
Chúa Ki-tô, ông đã có vợ, nhưng vẫn say mê sắc đẹp vợ của ông Uria, dẫn vua đến
phạm tội ngoại tình, rồi âm mưu giết Uria để cướp vợ ông (x 2 Sm 11) ; vua
Salomon dù được danh là khôn ngoan nhất trên đời, thế mà lại ngu xuẩn xây chùa
miếu cho các vợ ngoại, hậu quả làm cho đất nước bị chia đôi (x 1V 11). Trong
khi đó gia đình đơn hôn vẫn nêu gương sáng như gia đình Tôbya để có nhiều điều
kiện làm việc bác ái (x Sách Tôbya), và gia đình Hô-sê, ông chỉ trung thành với
cô vợ điếm, ông đã trở thành dấu chỉ diễn tả tình thương của Chúa Giêsu đối với
Hội Thánh Ngài (x Sách Hô-sê).
2/
Vợ chồng diễn tả mầu nhiệm Hội Thánh
Chúa Ki-tô lữ hành. Như Lời Đức Giê-su
đã nói: “Người nam sẽ bỏ cha mẹ mà luyến
ái với vợ mình” (Mt 19,5a: Tin Mừng). Chân lý này Đức Giê-su muốn nói về
chính Ngài: Ngài đã bỏ Cha trên trời đến trần gian muốn “cưới” lấy loài người
là những người sống đức ái trong Hội Thánh (x HCHT số 14) và Chúa muốn dùng đời
sống hôn nhân Công Giáo để diễn tả tình yêu giữa Chúa Kitô và Hội Thánh. Bởi đó
Thánh Phao-lô nói: “Chồng phải yêu thương
vợ như Đức Ki-tô yêu Hội Thánh ; và vợ phải phục tùng chồng như Hội Thánh tùng
phục Đức Ki-tô” (Ep 5,21t).
Như thế vợ chồng
là hình ảnh Hội Thánh lữ hành, họ trở
nên dấu chỉ ơn cứu độ cho thế gian. Nhờ đó, họ giới thiệu Hội Thánh Chúa
Ki-tô với thế gian qua đời sống gia đình của họ. Chân lý này đã được Chúa mạc
khải qua lịch sử dân tộc Do Thái, là dân Ngài chọn :
FChúa đã chọn dân Do Thái giữa muôn ngàn dân tộc.
Ông Giosuê nhắc lại bao việc lạ
lùng Chúa đã dùng cánh tay uy quyền mà đưa dân tộc Do Thái về định cư miền đất
hứa chảy sữa và mật: Ngay từ lúc cha của Abraham – tổ phụ Do Thái – còn thờ các
ngẫu thần, thì Chúa đã chọn ông Abraham, cho ông sinh Isaac trong tuổi già.
Dòng giống này được Giuse đưa sang Ai Cập định cư, đời sống của họ rất phồn
thịnh. Nhưng khi ông Giuse chết, đế quốc Ai Cập bắt dân Do Thái làm nô lệ. Chúa
dùng bàn tay ông Mô-sê đánh phạt dân Ai Cập và đưa dân về chiếm miền đất chảy
sữa và mật của bao dân tộc hùng mạnh hơn Do Thái. Ông Ba-lác thấy dân Do Thái
hùng mạnh nên nhờ thầy tướng số Bi-lơ-am chúc dữ, nhưng Chúa lại chúc phúc cho
Do Thái thoát khỏi tay Ba-lác. Cụ thể như dân thấy Chúa dùng ong bầu đuổi hai
vua Êmôri cho khuất mắt, để dành đất cho Do Thái, họ không vất vả khai phá mà
có thành quách lớn, những vườn nho, vườn ô liu không trồng mà được ăn trái (Gs
24,1-13: Bài đọc năm lẻ).
F Chúa không rẫy từ dân Do Thái dù họ phạm
tội.
Chân lý này Chúa
đã diễn tả qua miệng ngôn sứ Êdêkien: “Hỡi
con người, hãy cho Giê-ru-sa-lem (nơi Thánh thờ phượng Chúa) biết các điều ghê
tởm của nó, gốc gác của nó là dòng họ xuất phát từ đất Canaan, cha nó là người
Êmori, mẹ nó là người Khết. Lúc chào đời không ai cắt rốn,không ai tắm rửa, cũng
không ai lấy tã bọc cho nó, nó bị quăng ra giữa đồng vì ai cũng ghê tởm nó. Ta
đi ngang qua thấy nó giãy giụa trong máu, thấy nó mình đầy máu me, Ta đã phán
với nó: “Cứ việc sống”, Ta làm cho nó nảy nở như hoa ngoài đồng, nó đã lớn và
thành thiếu nữ với bộ ngực nở nang, mái tóc mượt mà, nhưng nó vẫn là kẻ trần
truồng, không mảnh vải che thân. Ta đi ngang qua chỗ nó và thấy, và Ta nói với
nó: “Nay ngươi đã đến tuổi yêu đương. Ta đã lấy vạt áo của Ta phủ lên để che
thân thể lõa lồ của ngươi. Ta đã thề nguyền và lập Giao Ước với ngươi, ngươi
thuộc về Ta, Ta lấy nước tắm rửa, gột sạch máu me, rồi xức dầu thơm cho ngươi.
Ta đã cho ngươi mặc đồ gấm vóc, đi giày da mềm, thắt khăn vải gai mịn và khoác
áo tơ lụa. Ta đã lấy đồ trang sức tô điểm cho ngươi: đeo xuyến vào tay, đeo
kiềng vào cổ, đeo hoa tai cho ngươi, và lấy triều thiên rực rỡ đội trên đầu
ngươi. Giữa muôn dân nước, ngươi được nổi tiếng về nhan sắc của ngươi. Thế mà
ngươi đã cậy có nhan sắc, ỷ vào danh tiếng của ngươi để đàng điếm và hoang dâm
với mọi khách qua đường! Còn Ta, Ta sẽ nhớ lại Giao Ước Ta đã lập với ngươi
thời ngươi còn thanh xuân, Ta sẽ thiết lập với ngươi một Giao Ước vĩnh cửu, Ta
đã tha thứ cho ngươi tất cả những việc ngươi đã làm” (Ed 16,1-15.60.63: Bài
đọc năm chẵn). Đúng là “muôn ngàn đời
Chúa vẫn trọn tình thương” (Tv 136/135: Đáp ca năm lẻ).
Do đó nếu vợ chồng
Công Giáo được phép ly dị nhau, không hẳn là họ làm thiệt hại nhau, vì đôi bên
đồng ý ly dị, thì họ vẫn là kẻ phản bội lại sứ mệnh diễn tả Hội Thánh, xúc phạm
đến sự thánh thiện của Hội Thánh, bởi vì người chồng là hiện thân Chúa Kitô
trong gia đình Công Giáo (x Ep 5,21t).
II. VẤN ĐỀ ÔNG MÔ-SÊ CHO PHÉP LY DỊ.
Lý do:
1/
Trọng nam khinh nữ.Người Do Thái cũng
như nhiều dân tộc khác dành nhiều đặc
quyền cho người nam, đó cũng là lý do khi người Do Thái viết gia phả, họ không
bao giờ đưa phụ nữ vào, như gia phả của Adam (x St 4-5), gia phả của ông Noe (x
St 10). Ngay tại Việt Nam,
các cụ thường nói: “Nhất nam viết hữu,
thập nữ viết vô!”
2/
Dòng tộc đông đúc là phúc lộc Chúa ban.Người Do Thái muốn
Chúa thực hiện lời chúc phúc cho dòng tộc của họ đông như sao trời, như cát
biển (x St 22,17). Mà muốn đông con nhiều cháu thì phải lấy nhiều vợ, người vợ
của họ phải là “khác nào cây nho đầy hoa
trái (đông con), và bầy con tựa những cành ô-liu mơn mởn, xúm xít tại bàn ăn”
(Tv 128/127,3).
Trước đây cứ vào
dịp Tết, lời đầu tiên người ta hỏi thăm nhau cũng là chúc mừng nhau trong dịp
đầu Xuân: “Bác được bao nhiêu cháu ?” Câu đáp thật vui vẻ: “Cám ơn, Chúa cho vợ
chồng tôi sinh được mười lăm cháu…!”
3/
Hôn nhân thời Cựu Ước không phải là Bí tích, chỉ là hôn nhân
tự nhiên, nhằm hai mục đích: giúp đỡ
nhau và sinh con cái, khi họ bất hòa thì không đạt được hai mục đích trên.
Đó là lý do đưa đến ly dị!
4/
Vì lòng chai dạ đá mà ông Mô-sê cho phép rẫy vợ (Mt 19,8a). Đức
Giê-su đã khẳng định như vậy, bởi vì ý định từ thuở ban đầu của Thiên Chúa là
một vợ một chồng (x Mt 19,8b), đây là dấu chỉ Luật Cựu Ước chưa hoàn hảo. Cụ
thể ông Mô-sê cho rẫy vợ (x Mt 19,7: Tin Mừng), Luật chỉ hoàn hảo nhờ Chúa
Giêsu (x Mt 5,17). Do đó Chúa Giêsu cấm ly dị vì trái với ý Chúa đã thiết định
một vợ một chồng ngay từ thuở ban đầu, nên Ngài không cho phép ai phá vỡ Luật
đó (x Mt 19,4-6: Tin Mừng). Đức Giêsu nói: “hai
người đã trở nên một xương một thịt, cho nên sự gì Thiên Chúa đã kết hợp, loài
người không được phân ly” (Mt 19,6: Tin Mừng). Thật là vô cùng khốn nạn nếu
vợ chồng có Luật cho ly dị, chắc chắn sẽ gây xáo trộn trong gia đình, con cái
không biết theo ai, và như vậy vợ chồng đã tự “xé xác” con cái mình. Và còn làm
cho xã hội gia tăng thêm những kẻ phạm pháp. Ấy chưa kể là họ tự tố cáo mình là
những kẻ dối trá, vì trong ngày Lễ Cưới họ đã thề trước Chúa và Hội Thánh: “Anh (Em) yêu Em (Anh) khi thịnh vượng cũng
như lúc gian nan, khi ốm đau cũng như lúc mạnh khỏe, để yêu thương và tôn trọng
Em (Anh) mọi ngày suốt đời Anh (Em)”.
B. ĐỨC GIÊSU TRẢ LỜI CHO CÁC MÔN ĐỆ VỀ
NHỮNG KHÓ KHĂN TRONG ĐỜI SỐNG GIAĐÌNH.
Môn đệ hỏi: “Nếu thân phận chồng đối với vợ là như vậy, thì thà đừng cưới vợ”,
thì Đức Giê-su trả lời: “Không phải mọi
người hiểu được điều này, nhưng chỉ có
những ai được Thiên Chúa ban cho mới hiểu. Vì có những người yêm hoạn bởi từ
lòng mẹ đã sinh ra như vậy ; và có những người yêm hoạn bởi người khác làm cho;
lại có những người tự ý làm cho mình thành yêm hoạn vì Nước Trời” (Mt
19,10-12: Tin Mừng).
-
“Có người yêm
hoạn từ lòng mẹ” (Mt 19,12a). Đây là một loại bệnh về sinh lý thuộc
mầu nhiệm sự dữ, Đức Giê-su đã giải thích về bệnh tật người ta phải mang: “Chẳng phải tội người ấy hay cha mẹ nó đã
phạm, song để nơi nó công việc Thiên Chúa được hiện tỏ” (Ga 9,3).
-
“Có những người
bị người khác làm cho yêm hoạn”
(Mt 19,12b). Cụ thể các hoạn quan trong đền vua, chỉ vì miếng cơm manh áo mà
chịu thiến!
-
“Có những kẻ yêm
hoạn vì Nước Trời” (Mt 19,12c). Câu này có quyền hiểu hai nghĩa:
· Đức Giê-su nói về hàng giáo sĩ của
Hội Thánh, họ tình nguyện sống độc thân để chuyên lo việc Nước Thiên Chúa (x 1
Cr 7,32). Đức Giê-su gọi những người này là thiên thần: “Con cái đời này cưới vợ lấy chồng, chứ những ai được xét là đáng hưởng
phúc đời sau và sống lại từ cõi chết, thì không cưới vợ cũng chẳng lấy chồng.
Quả thật, họ không thể chết nữa, vì được ngang hàng với các thiên thần. Họ là
con cái Thiên Chúa, vì là con cái sự sống lại”(Lc 20,34-36). Như vậy, người sống độc thân vì Nước Trời diễn tả
giá trị Hội Thánh thời cánh chung.
· Vợ chồng trung tín với nhau theo Luật Chúa, cũng được hiểu là một
loại “yêm hoạn” vì Nước Trời. Bởi lẽ một giáo sĩ phải giữ ba lời khấn: vâng lời, khó nghèo và khiết tịnh. Thế
thì vợ chồng vâng lời nhau thì khó hơn một tu sĩ vâng lời Bề Trên ; vợ chồng
sống khó nghèo tức là vợ sống vì chồng, chồng sống vì vợ, cả vợ chồng sống vì
đàn con, nên họ chấp nhận cảnh nghèo, điều này làm họ mệt mỏi hơn giáo sĩ không
được có tài sản ; vợ chồng trung thành với nhau về vấn đề sinh lý, thì còn khó
hơn một giáo sĩ giữ đức khiết tịnh. Bởi thế thánh Phao-lô khuyên các tín hữu
nếu có thể hãy sống độc thân như ông, “vì
người có vợ thì lo lắng việc đời, họ tìm cách làm đẹp lòng vợ; người độc thân
thì lo việc Chúa để làm đẹp lòng Chúa” (1Cr 7,33). Và ông đề nghị: “Người có vợ hãy ở như không có, vì ngày cánh
chung đã gần kề” (1Cr 7,29).
Vậy vợ chồng có sứ mệnh diễn tả đời sống Hội Thánh lữ hành, đó là mục đích
chính của Hôn Nhân Ki-tô giáo. Khi vợ chồng có sự bất hòa, hãy nhớ Hội
Thánh được gọi là trẻ thơ (x 1Ga 2,1.12.14.18.28), thì hãy sống tinh thần trẻ
thơ như thánh Phao-lô dạy: “Có bất hòa
thì như con nít thôi” (1Cr 14,20).
Để “khi cơn giận đã nguôi rồi, Chúa lại
ban niềm an ủi” (Is 12,1c: Đáp ca năm chẵn). Bởi đó Thánh Tông Đồ khuyên: “Anh em hãy đón nhận Lời Thiên Chúa, không
phải như lời người phàm, nhưng như Lời Thiên Chúa, đúng theo bản tính của Lời
ấy” (1Tx 2,13: Tung Hô Tin Mừng)
THUỘC LÒNG
Chồng phải yêu thương vợ như Đức Ki-tô yêu Hội Thánh và vợ
phải phục tùng chồng như Hội Thánh tùng phục Đức Ki-tô (Ep 5,21).
* XIN
ĐƯỢC GÓP Ý :
Nhìn vào thực tế, chắc ai cũng
phải công nhận hầu hết những đôi vợ chồng còn ở với nhau chỉ vì nghĩa vụ chứ
không phải vì tình yêu, cho nên họ phải chịu đựng nhau. Khi không chịu đựng
nổi, thì chắc chắn đi đến ly dị!
Vậy tôi đề nghị các bạn trẻ trước
khi lập gia đình cần phải cầu nguyện nhiều xin Chúa soi sáng, lắng nghe kinh
nghiệm của cha mẹ và những người đi trước hướng dẫn. Khi đã quyết định thì phải
có tiêu chuẩn chọn bạn. Tôi xin đưa ra chín tiêu chuẩn sau :
NHỮNG TIEÊU CHUẨN CHỌN BẠN TRĂM NĂM
Thiết
tưởng có chín tiêu chuẩn sau đây:
1- Cùng Tin: Thánh Phao-lô dạy: “Chớ
có lứa đôi lệch lạc giữa người tin Chúa và kẻ không tin, vì hòa hợp thế nào
được giữa ánh sáng và bóng tối!” (2 Cr 6, 14).
2- Tự Lập: Chúa Giê-su nói: “Người nam sẽ bỏ cha mẹ mình
mà luyến ái với vợ” (Mt 19, 5). Vậy:
/ Tự lập về mặt
kinh tế: Vợ chồng không lệ thuộc vào tiền của bên nội hay bên ngoại.
Liệu sao vợ chồng có khả năng tổ chức một gia đình đủ cho nhu cầu tối thiểu.
/ Tự lập về mặt
tinh thần: Vợ chồng phải đặt trách nhiệm xây dựng một gia đình hiệp
nhất trong ý Chúa, không vì chữ hiếu mà nghiêng ngả bên nội hay bên ngoại.
3- Trẻ Thơ: Thánh Phao-lô nói: “Anh em có bất hoà thì
như con nít thôi!” (1Cr 14, 20).
4- Tuổi Đời: Vợ không nên nhiều tuổi hơn chồng, vì sắc đẹp
và khả năng sinh lý của vợ chóng tàn hơn chồng.
5- Văn Hóa: Văn hóa của vợ không nên trổi vượt hơn chồng.
Vì nếu văn hóa của vợ trổi hơn chồng, người chồng sẽ mặc cảm.
6- Làm Việc: Nhờ cả hai vợ chồng
thích làm việc, họ dễ cảm thông lẫn nhau, nhất là tháo vát giải quyết được
những khó khăn của gia đình.
7- Khỏe Mạnh: Cả hai vợ chồng cần
có sức khoẻ tương đối, vừa để đảm bảo kinh tế gia đình, vừa để bảo đảm sức khoẻ
con cái.
8- Vui Tươi: Niềm vui trên khuôn
mặt là dấu chỉ sự hiện diện của Thiên Chúa. Thực vậy, thiên thần nói với Đức Ma-ri-a trong lúc truyền tin: “Vui
lên! Hỡi Đầy ơn phúc! Chúa ở cùng Bà” (Lc 1, 28). Pla-ton định
nghĩa: “Con người là con vật biết cười!”
9- Khó Với Mình, Quảng Đại Với Chúa
Và Tha Nhân (x 2 Cr 6, 12t).
Đó là tu thân: tự bắt mình đi ngược lại bản tính ích kỷ.
Nhưng trong thực tế,
không ai tìm được một người đủ chín tiêu chuẩn trên, nhưng tưởng đó là một chỉ
tiêu cần thiết đặt ra để các bạn chọn lựa. Một người bạn chọn, càng đạt được
nhiều tiêu chuẩn trên, thì bạn càng an tâm hơn. Nếu tiêu chuẩn quá ít thì phải
nhắm trứơc sự chịu đựng của mình.
/ TÓM TẮT:
Cùng
tin, tự lập, trẻ thơ.
Tuổi đời văn hóa: thiếp nhờ chàng hơn.
Cùng làm, mạnh khỏe, vui tươi.
Khó ta, quảng đại tha nhân. Cưới liền!
LM. GIUSE ĐINH QUANG
THỊNH