BÀI ĐỌC 1 VÀ 2 (NẾU CÓ)
BÀI ĐỌC I: Cv 2,1-11
1 Khi
đến ngày lễ Ngũ Tuần, mọi người đang tề tựu ở một nơi,2
bỗng từ trời phát ra một tiếng động, như tiếng gió mạnh ùa vào đầy cả căn nhà,
nơi họ đang tụ họp.3 Rồi họ thấy xuất hiện những
hình lưỡi giống như lưỡi lửa tản ra đậu xuống từng người một.4 Và
ai nấy đều được tràn đầy ơn Thánh Thần, họ bắt đầu nói các thứ tiếng khác, tuỳ
theo khả năng Thánh Thần ban cho.
5 Lúc
đó, tại Giê-ru-sa-lem, có những người Do-thái sùng đạo, từ các dân thiên hạ trở
về.6 Nghe tiếng ấy, có nhiều người kéo đến.
Họ kinh ngạc vì ai nấy đều nghe các ông nói tiếng bản xứ của mình.7 Họ
sửng sốt, thán phục và nói: "Những người đang nói đó không phải là người
Ga-li-lê cả ư?8 Thế sao mỗi người chúng ta
lại nghe họ nói tiếng mẹ đẻ của chúng ta?9
Chúng ta đây, có người là dân Pác-thi-a, Mê-đi, Ê-lam, Mê-xô-pô-ta-mi-a,
Giu-đê, Cáp-pa-đô-ki-a, Pon-tô, và A-xi-a,10 có
người là dân Phy-ghi-a, Pam-phy-li-a, Ai-cập, và những vùng Li-by-a giáp giới
Ky-rê-nê; nào là những người từ Rô-ma đến đây;11 nào
là người Do-thái cũng như người đạo theo; nào là người đảo Cơ-rê-ta hay người
Ả-rập, vậy mà chúng ta đều nghe họ dùng tiếng nói của chúng ta mà loan báo
những kỳ công của Thiên Chúa! "
ĐÁP CA: Tv 103
Đ. Lạy Chúa, xin gửi Thần Khí tới,
và
Ngài sẽ đổi mới mặt đất này. (x c 30)
1ab Chúc tụng Chúa đi, hồn tôi hỡi! Lạy
Chúa là Thiên Chúa con thờ, Chúa muôn trùng cao cả! 24ac Công trình Ngài, lạy Chúa, quả thiên
hình vạn trạng! những loài Chúa dựng nên lan tràn mặt đất.
29bc Ngài lấy sinh khí lại, là chúng tắt thở
ngay, mà trở về cát bụi. 30 Sinh khí của Ngài, Ngài gửi tới, là
chúng được dựng nên, và Ngài đổi mới mặt đất này.
31 Vinh hiển Chúa, nguyện muôn năm tồn
tại, công trình Chúa làm Chúa được hân hoan. 34 Nguyện
tiếng lòng tôi làm cho Người vui thoả, đối với tôi, niềm vui là chính Chúa.
BÀI ĐỌC II: 1Cr
12,3b-7.12-13
3b Thưa
anh em, không ai có thể nói rằng: "Đức Giê-su là Chúa", nếu người ấy
không ở trong Thần Khí. 4 Có
nhiều đặc sủng khác nhau, nhưng chỉ có một Thần Khí.5 Có
nhiều việc phục vụ khác nhau, nhưng chỉ có một Chúa.6 Có
nhiều hoạt động khác nhau, nhưng vẫn chỉ có một Thiên Chúa làm mọi sự trong mọi
người.7 Thần Khí tỏ mình ra nơi mỗi người một
cách, là vì ích chung.
12
Thật vậy, ví như thân thể người ta chỉ là một, nhưng lại có nhiều bộ phận, mà
các bộ phận của thân thể tuy nhiều, nhưng vẫn là một thân thể, thì Đức Ki-tô
cũng vậy.13 Thật thế, tất cả chúng ta,
dầu là Do-thái hay Hy-lạp, nô lệ hay tự do, chúng ta đều đã chịu phép rửa trong
cùng một Thần Khí để trở nên một thân thể. Tất cả chúng ta đã được đầy tràn một
Thần Khí duy nhất.
CA TIẾP LIÊN :
Muôn
lạy Chúa Thánh Thần,
Xin ngự đến
trần gian,
Tự trời cao
gửi xuống
Nguồn ánh
sáng tỏa lan.
Lạy Cha kẻ
bần hàn,
Đấng tặng
ban ân điển
Và soi dẫn
nhân tâm,
Cúi xin Ngài
ngự đến !
Đấng an ủi
tuyệt diệu
Thượng khách
của tâm hồn
Ôi ngọt ngào
êm dịu
Dòng suối
mát chảy tuôn !
Khi vất vả lao công.
Ngài là nơi
an nghỉ,
Gió mát đuổi
cơn nồng,
Tay hiền lau giọt lệ.
Hỡi hào quang linh diệu,
Xin chiếu
giãi ánh hồng
Vào tâm hồn
tín hữu
Cho rực rỡ
trinh trong.
Không thần
lực phù trì
Kẻ phàm nhân
cát bụi,
Thật chẳng
có điều chi
Mà không là
tội lỗi.
Hết những gì
nhơ bẩn,
Xin rửa cho
sạch trong,
Tưới gội nơi
khô cạn,
Chữa lành
mọi vết thương.
Cứng cỏi uốn
cho mềm,
Lạnh lùng
xin sưởi ấm,
Những đường
nẻo sai lầm,
Sửa sang cho
ngay thẳng.
Những ai
hằng tin tưởng
Trông cậy
Chúa vững vàng,
Dám xin Ngài
rộng lượng
Bảy ơn thánh
tặng ban.
Nguyện xin
Chúa thưởng công
Cuộc đời dày
đức độ,
Ban niềm vui
muôn thuở
Sau giờ phút
lâm chung.
BÀI GIẢNG
HOẠT ĐỘNG CỦA THÁNH
THẦN
Thiên
Chúa là Đấng vô hình, nhưng để cho chúng ta hiểu một phần nào về Thiên Chúa, thì truyền thống Hội Thánh vẫn tưởng
nghĩ về Chúa Cha là một cụ già nhân hậu ; Chúa Con khi nhập thể là người Do Thái
có trong lịch sử loài người gắn liền với ông Xê-da, hoàng đế Roma (x Mt 22,21),
nhưng rất tiếc không có máy chụp nào để lại hình ảnh của Ngài, ngoại trừ tấm
khăn liệm xác mà người ta vẫn cho đó là
khuôn mặt Chúa Giê-su ; còn Chúa Thánh Thần thì Tân Ước mạc khải cho chúng ta
qua ba hình ảnh :
-
Chúa Thánh Thần như chim bồ câu (x Mt 3,16).
-
Chúa Thánh Thần là luồng gió mạnh (x Cv 2,1).
-
Chúa Thánh Thần là lửa (x Cv 2,3).
Như
thế, qua những hình ảnh về Chúa Thánh Thần, chúng ta có thể biết được phần nào sứ
mệnh của Ngài được Chúa Cha và Chúa Con ủy thác, làm cho công trình cứu độ con
người được ứng dụng nơi những người tin
Chúa Giê-su là Thiên Chúa Cứu Độ duy nhất (x Cv 4,12).
I. CHÚA THÁNH THẦN NHƯ
CHIM BỒ CÂU (x Mt 3,16)
Hình
ảnh chim câu cho chúng ta nhận biết sứ mệnh Chúa Thánh Thần là Đấng làm cho
chúng ta trung tín với Thiên Chúa để được bình an, và Ngài làm cho chúng ta trở
Hiền Thê của Chúa Ki-tô, khởi đi từ Bí tích Thánh Tẩy :
1/ Chúa Thánh Thần làm
cho chúng ta được trở nên trung tín với Thiên Chúa để ta được bình an.
Ta
biết trong muôn sinh vật, chỉ có loài chim câu luôn đẻ hai trứng, khi nở, một
con trống và một con mái, chúng kết bạn với nhau, nếu một trong hai con đó chết
đi thì người ta không thể ghép con sống với con chim khác được. Sự trung tín phát
sinh bình an. Quả thật, trong niềm tin nơi Thiên Chúa hoặc tương quan trong đời
sống xã hội con người, đặc biệt là đời sống lứa đôi, muốn có sự bình an, không
thể vắng bóng lòng trung tín. Chính vì thế mà khi Chúa Giê-su Phục Sinh thổi
hơi vào các môn đệ - trao ban Thần Khí
cho các ông, Ngài nói: “Bình an cho anh
em” (Ga 20,19: Tin Mừng).
2/ Chúa Thánh Thần
làm cho chúng ta trở nên Hiền Thê của Chúa Ki-tô khởi đi từ Bí tích Thánh Tẩy.
Khi ông
Gioan làm phép rửa cho Đức Giê-su tại sông Giodan, Chúa Thánh Thần xuất hiện
như chim câu đậu trên đầu Ngài, và có tiếng từ trời phán: “Đây là Con chí ái Ta, kẻ ta sủng mộ” (Mt 3,16-17). Tiếng từ trời
phán như thế là nói về ơn cứu độ chúng ta được nhờ với trong Chúa Giê-su, nghĩa là khi chúng ta lãnh nhận Bí tích Thánh
Tẩy, chẳng những ta được gọi là dưỡng tử chí ái của Thiên Chúa, mà còn được gọi
là Hiền Thê của Chúa Ki-tô. Vì thế thánh Phaolo nói với các tín hữu: “Tôi đã đính hôn anh em với một người độc
nhất là Đức Ki-tô, để tiến dâng anh em cho Người như một trinh nữ thanh khiết”
(2Cr 11,2). Ơn huệ lớn lao này đã được tiên báo qua sách Diễm ca, chàng gọi
nàng: “Bồ câu của anh ơi,em ẩn trong hốc
đá, trong vách núi cheo leo.Nào, cho anh thấy mặt, nào, cho anh nghe tiếng,vì
tiếng em ngọt ngào và mặt em duyên dáng." Nàng đẹp quá, bạn tình ơi, đẹp
quá !Sau tấm mạng the, đôi mắt nàng, cặp bồ câu xinh đẹp.Tóc nàng gợn sóng như
đàn sơn dương tự trên ngàn Ga-la-át tủa xuống” (Dc 2,14 ; 4,1).
Để
ta ý thức sống xứng đáng là Hiền Thê của Chúa Giê-su, ta cứ nhìn đôi vợ chồng
trước và sau ngày cưới họ không có gì thay đổi về dáng vóc, về địa vị, về tài
năng… Nhưng trong nội tâm họ thay đổi : khi đã thành vợ chồng, muốn cho gia
đình hạnh phúc thật, người chồng hay vợ nói gì, làm gì, trong tâm trí họ cũng
luôn đặt câu hỏi: như thế này thì người vợ (chồng) của mình có vui không ? Và
họ rất sợ khi người bạn đời phật lòng. Nói kiểu thánh Phaolo: “Dù ăn, dù uống, dù làm bất cứ việc gì hãy
làm tất cả để vinh danh người mình yêu” (x 1Cr 10,31). Sống như thế họ tăng
thêm nghị lực.
Lần
kia có năm lực sĩ thi nhau bê những quả tạ lớn lên một trụ cao. Bắt đầu cuộc
thi năm anh tỏ ra không ai thua ai, nhưng đến quả tạ thứ ba, thứ bốn, là nhiều
anh không còn sức để bê trừ một anh bê năm quả tạ đặt lên đế rất nhẹ nhàng.
Người ta phỏng vấn anh: “Tại sao anh khỏe
thế?” Anh vui vẻ đáp ngay: “Ấy mỗi
khi bê quả tạ, tôi nhớ đến vợ tôi”. Nếu người đời nhớ đến người yêu mà còn
tăng sức lực, huống chi chúng ta là con yêu dấu của Cha trên trời, là Hiền Thê
của Con Thiên Chúa, thì mỗi khi ta nói gì, làm việc gì, ta hãy nhớ đến Chúa để
làm vui lòng Ngài, chắc chắn Chúa sẽ ban cho ta nhiều nghị lực hơn anh lực sĩ
được tăng sức vì tâm lý.
Một
trong những điều hạnh phúc của đời sống lứa đôi là họ sinh con cho nhau. Bởi đó
người Ki-tô hữu phải nhiệt tâm thực hành Lời di chúc của Đức Giê-su nhằm sinh
con cho Ngài: “Hãy đi khắp thế gian tập
họp môn đệ cho Thầy và làm Phép Rửa cho họ
nhân danh Cha, và Con và Thánh
Thần, và dạy họ tuân giữ những điều Thầy truyền” (Mt 28,19-20), hoặc thực
hành lời thánh Phaolo khuyên: “Làm tư tế
của Đức Ki-tô Giê-su nơi các dân ngoại, mà hành lễ là rao giảng Tin Mừng của
Thiên Chúa, ngõ hầu lễ vật là dân ngoại được Thiên Chúa vui lòng chiếu nhận,
bởi được tác thánh trong Thánh Thần”
(Rm 15,16).
II. CHÚA THÁNH THẦN LÀ
LUỒNG GIÓ MẠNH (x Cv 2,1)
Gió
(khí) là nguồn sống quan trọng nhất của mọi sinh vật. Nhưng gió chỉ phát sinh
sự sống khi nó được chuyển lưu. Cụ thể như một người bị nghẹt thở, muốn cứu
người đó ta phải đưa khí vào buồng phổi của họ, và nếu phổi không tống khí ra,
thì khí cũng không làm cho cơ thể được sống.Vì thế, khi Chúa Giê-su đến thông
ban sự sống Phục Sinh cho các Tông Đồ, Ngài thổi hơi (ban Thần Khí) vào các ông
(x Ga 20,22) ; và trong ngày lễ Ngũ Tuần, Chúa Thánh Thần đến như một luồng gió
mạnh thổi vào nhà các môn đệ đang tụ họp (x Cv 2,2: Bài đọc I). Và họ phải bung
cửa ra đi loan báo Tin Mừng cho thế giới, thì họ mới được sống và làm cho nhiều
người được sống. Sự sống phát sinh còn lệ thuộc vào mỗi người chu toàn đặc sủng
Chúa Thánh Thần ban riêng cho: “Có nhiều
việc phục vụ khác nhau như trong một thân mình có nhiều chi thể khác nhau, nhưng
chỉ có một Chúa, có nhiều hoạt động khác nhau,
nhưng chỉ có một Thiên Chúa làm mọi sự trong mọi người. Thánh Thần tỏ mình ra nơi mỗi người một cách
là vì ích chung” (1Cr 12,3-7: Bài đọc II). Như vậy, mỗi người được Chúa
Thánh Thần ban cho tài năng riêng, không phải để vênh vang với người khác,
nhưng vì ích chung trong Thân Mình Đức Ki-tô, các chi thể muốn được sống, nó
phải góp phần làm cho toàn thân lành mạnh. Muốn được thế, ta phải chấp nhận
gian khổ khi phục vụ dưới ánh sáng Tin Mừng. Đó là lý do Chúa Giê-su Phục Sinh dù đã toàn
thắng mọi sự dữ, nhưng Ngài lại tỏ mình ra cho các môn đệ thấy thân thể Ngài
còn mang thương tích (x Ga 20,20: Tin Mừng). Đây là dấu chỉ các Ki-tô hữu là
các chi thể của Ngài khi phục vụ phải chấp nhận đổ máu cho tới ngày cánh chung,
thì Thân Thể Chúa Giê-su Phục Sinh mới vinh hiển vẹn toàn không còn mang thương
tích.
III. CHÚA THÁNH THẦN LÀ
LỬA (x Cv 2,3)
Chúa
Thánh Thần lại lấy hình lưỡi lửa đậu
trên đầu các môn đệ (x Cv 2,3: Bài đọc I). Đây là dấu Ngài thanh tẩy ta để trở
nên chứng nhân của Chúa Giê-su Phục Sinh, có thế ta mới góp phần cùng với muôn
tạo vật mà ca tụng Thiên Chúa. Chân lý này đã được tiên báo qua thị kiến của
Isaia lúc ông vào Đền Thờ: ông nhìn thấy các Thiên thần hát khen Thiên Chúa: “Thánh Thánh Thánh, Chúa là Thiên Chúa các
đạo binh”, và các cửa Đền Thờ rung rinh theo nhịp hát của các Thiên thần.
Như vậy cả tạo vật vô tri bất giác nó cũng muốn ca tụng Thiên Chúa, nhưng nó
phải lệ thuộc vào những người tin Chúa cho nó được chung phần ca tụng. Bởi đó thánh
Phaolo nhân cách hóa tạo vật: “Vạn vật
rên siết mong được cùng với con cái Thiên Chúa để ca tụng, với hy vọng nó khỏi
lâm cảnh làm tôi mục nát, mà vào địa vị tự do trong vinh quang thuộc hàng con
cái Thiên Chúa” (Rm 8,19-21). Ngôn sứ Isaia thấy mình thua các tạo vật
không biết ca tụng Thiên Chúa vì miệng lưỡi ông ở giữa những người phàm nên ô
uế, Chúa thương tình sai Thiên thần gắp than hồng trên tế đàn đặt vào miệng
lưỡi ông, tức khắc nó được tinh sạch, nhờ đó ông cất lời cùng với các Thiên
thần ca tụng Thiên Chúa (x Is 6).
Chúng
ta lưu ý quyền tha tội Chúa không trao riêng cho cá nhân giống như quyền làm
chủ chân lý Đức Giê-su trao riêng cho ông Phê-rô (x Mt 16,17 ; Lc 22,31-32), mà
Ngài trao cho cộng đoàn Hội Thánh (các Tông Đồ). Bởi vì quyền làm chủ giáo lý
nếu không do một người duy nhất quyết định, thì không thể có chân lý, như Đức
Giê-su đã khẳng định: “Chúng con chỉ một Thầy là Đức Ki-tô” (Mt 23,10),
và quyền này Chúa đã trao riêng cho ông Phê-rô ; trái lại, quyền tha tội không
phải chỉ một mình Chúa tha cho chúng ta mà ta còn phải tha cho nhau nữa. Đó là
lý do Chúa trao quyền tha tội cho cộng đoàn (x Mt 18,18 ; Ga 20, 23: Tin Mừng).
Một
ông kia vào tòa xưng tội với Linh mục: “Con
rất giận con của con,vì nó phạm tội ác như một tướng quỷ, nhiều lần con khuyên
răn nó, nó không nghe, con đã từ nó. Nhưng mới đây nó về xin lỗi con, con đã
tha cho nó, nhưng con không thể chấp nhận cho nó vào nhà chung sống với gia
đình được.” Cha giải tội nói: “Thế
thì khi ông nhắm mắt lìa đời đến trước cửa Trời, Chúa cũng nói: “Mọi tội lỗi
của con Ta đã tha, nhưng Ta không thể cho con vào Nhà Ta được”. Đúng như
Lời Đức Giê-su đã nói: “Ta xử với ngươi
theo miệng ngươi nói” (Lc 19,22).
Khi
chúng ta để Chúa Thánh Thần soi sáng hiểu và giúp ta sống giáo lý Hội Thánh
dạy, thì Ngài làm ta gây ngạc nhiên, gây
thắc mắc cho những người xung quanh, để tạo dịp ta giới thiệu Chúa Ki-tô cho
họ, giống như ông Gioan Tẩy Giả mang sứ mệnh dọn đường cho Đấng Cứu Thế đến,
lối sống của ông cũng gây ngạc nhiên, nhiều người xúm lại cật vấn ông: “Ông có phải là Đấng Ki-tô không ? Ông có
phải là một ngôn sứ không ? Ông có phải là Êlya không ?” Và ông Gioan nhân
đó giới thiệu về Đấng Cứu Thế: “Phần
tôi,tôi thanh tẩy anh em bằng nước. Đứng
giữa các ông, Đấng mà các ông không biết, Đấng đến sau tôi, mà tôi không đáng
cởi quai dép Ngài, Ngài là Chiên Thiên Chúa Đấng khử trừ tội thế gian, Ngài
thanh tẩy anh em bằng Thánh Thần, Ngài là tuyển nhân của Thiên Chúa” (x Ga
1,19-34).
Ta
có thể hình dung Chúa Thánh Thần giúp ta biết gây ngạc nhiên để liên kết mọi
người thuộc về Chúa Ki-tô, như thể làm cho mọi người tiếp tục xây tháp Babel mới :
Nhìn vào H 1, ta có thể kết luận:
Chúa Thánh Thần gây sự lạ trên cộng đoàn (A) [12 Tông Đồ], khiến cộng đoàn (B) [3.000 người] kinh ngạc! (B) hỏi (A): sao được thế ? (A) giải thích: nếu (B) tin vào Giê-su như (A), thì (B) cũng được như (A) ! Thế là (B) được đưa đến với Đức Giê-su ! Ngài cũng làm cho (B) nhiều sự lạ, khiến (C) ngạc nhiên … và cứ như vậy, nhiều phần tử, nhiều cộng đoàn ngày càng liên kết với nhau và cùng kết hợp với Đức Giê-su, tạo nên một hình tháp. Đức Giê-su đã trở nên “Viên Đá đỉnh góc” (x Mt 21,42), và ngọn tháp càng vươn cao, thì Đức Giê-su và Thân Mình Ngài là Hội Thánh cũng được tôn vinh !
Chúa Thánh Thần giúp ta liên kết mọi người với Chúa Ki-tô như trên, khởi đi từ lúc ta được lãnh nhận Thánh Thần trong Bí tích Thánh Tẩy. Vì lời kết thúc nghi thức này ta được Hội Thánh trao phó: “Từ nay con là tư tế, là ngôn sứ và là vương đế”, và như vậy “dân Chúa được tạo nên một cộng đoàn tư tế làm vua trên toàn cõi đất” (x Xh 19,6 ; Kh 5,10).
Nhìn vào H 2, ta có
thể kết luận:
Chính
nhờ Chúa Thánh Thần ta được lãnh nhận qua Đức Giám mục trong Bí tích Thêm Sức, tất
cả những ai đã được tái sinh bởi Chúa Giê-su, họ còn phải được Giám mục đặt tay
như Tông Đồ Phaolo đã làm, nhờ thế Thánh Thần mới đến trên họ đầy đủ, để họ trở
nên cộng đoàn chứng nhân cho Tin Mừng (x Cv 19,5-6), Ngài giúp ta được thừa
hưởng công nghiệp của các thánh nhờ Tín Điều Các Thánh Cùng Thông Công, để ta
được thêm nghị lực, trở nên chứng nhân quy tụ muôn dân về cho Chúa.
Muốn
sống liên kết để xây dựng Hội Thánh như một ngọn tháp chạm Trời, mọi người Công
Giáo, nhất là các chủ chăn phải nói một ngôn ngữ như Hội Thánh dạy. Ta biết sau
lụt Hồng thủy (dấu chỉ Phép Rửa), con cháu ông Noe quyết tâm xây tháp Ba-ben
chạm tới Trời, mà không thành, vì “bất đồng ngôn ngữ” (x St 11). Nay bất cứ
cộng đoàn nào đã được nghe Chúa dạy và được Hội Thánh cắt nghĩa, vì Đức Giê-su
chỉ cắt nghĩa cho các Tông Đồ hiểu Lời Chúa dạy mà thôi (x Mt 13,36-43), thì
cộng đoàn đó được Chúa Thánh Thần giúp xây dựng đời họ chạm tới Trời !
Rất
tiếc ngày hôm nay có nhiều chủ chăn trong Hội Thánh khi loan báo Tin Mừng trong
Thánh Lễ đã không giữ đúng Quy Luật giảng dạy theo Hiến Chế Phụng Vụ đã đề ra :
-
Trong
việc cử hành Phụng Vụ, Thánh Kinh giữ vai trò tối quan trọng. Thực vậy, người
ta trích từ Kinh Thánh những Bài đọc,
những bài để dẫn giải trong bài giảng, nên cần phải phát huy lòng mộ mến Kinh
Thánh đậm đà và sống động
(HCPV số 24).
-
Bài
giảng là thuộc phần hoạt động của Phụng Vụ, nên thời gian thích hợp để giảng
giải… phải hết sức trung thành chu toàn thừa tác vụ giảng giải đúng với Nghi
Lễ. Tiên vàn bài giảng phải được múc lấy từ nguồn Kinh Thánh và Phụng Vụ (HCPV số 35).
-
Bài
giảng phải căn cứ vào Thánh Kinh để trình bày các mầu nhiệm đức tin và các quy
tắc cho đời sống Ki-tô giáo trong suốt chu kỳ năm Phụng Vụ
(HCPS số 52).
Ngày
nay đa số các cộng đoàn chỉ chủ trương giảng ngày thường 5 phút, ngày Chúa nhật
10-15 phút, thì dựa vào nền tảng nào ? Trong khi đó Lời Chúa để lại cho ta
những hình ảnh bắt ta phải suy nghĩ: Đức Giê-su giảng dạy tới ba ngày, dân đói
lả gần chết mà Ngài cứ thao thao (x Mt 15, 32t), hoặc ông Phaolo đến Trôa phục
vụ cả một tuần lễ, ngày cuối cùng ông kéo dài bài giảng quá nửa đêm, làm anh
Êutykho ngủ gật lộn đầu từ lầu ba xuống đất chết. Thế mà ông Phaolo không cho
phép ai đứng lên, ông tới bế xác chàng thanh niên đặt dưới chân mình, và tiếp
tục giảng cho đến sáng. Rất may, dứt bài giảng mọi người ra về trong vui vẻ
cùng với anh Êutykho (x Cv 20,7t). Sự kiện này chắc chắc Chúa không muốn chúng
ta hiểu theo nghĩa đen để áp dụng. Nhưng Ngài muốn ta phải quảng đại đối với
Lời Chúa: Người giảng phải xác tín như ông Phaolo: “Nếu tôi luôn làm hài lòng người đời (kẻ không muốn nghe Lời Chúa), thì tôi không còn là nô lệ của Đức Ki-tô”
(Gl 1,10) ; “Tôi giảng chẳng cần dựa vào
lời lẽ khôn khéo hấp dẫn của người đời, nhưng chỉ dựa vào bằng chứng xác thực
của Lời Chúa và quyền năng Thiên Chúa” (2Cr 2,4) ; và người đến nghe Lời
Chúa cũng phải quảng đại như những người đến nghe Đức Giê-su giảng ba ngày, dù
phải bỏ công ăn việc làm, bỏ ngủ nghỉ ăn uống ; hoặc phải kiên nhẫn ngồi nghe
giảng suốt đêm như ông Phaolo giảng ở Troa (x Cv 20,7t) .
Được
như thế, dân Chúa tiếp tục xây tháp Ba-ben mà xưa kia con cháu ông Noe đã bỏ
dở, vì họ không còn nói chung một ngôn ngữ !
Truyện kể
Tại Ecuador
(Nam Mỹ), có hai cô gái tên là Consuela
và Conchita Perazza, hai cô có chung một cơ thể, chỉ khác nhau cái đầu, và tính
tình trái ngược nhau, do đó thường sinh ra bất hòa ! Nhưng không thể đấu võ với
nhau được ! Cô Conchita sở hữu một giọng hát oanh vàng, còn cô Consuela có tài
hùng biện. Sau này hai cô nhờ học biết về Thánh Kinh nên họ trở nên hòa thuận,
và nhận ra họ có hình thù khác lạ là ơn Chúa ban, nên đã tận dụng ơn huệ này để
rao giảng về Thiên Chúa. Hai cô đi đến nhất trí là: Conchita cất giọng hát để
thu hút mọi người, lợi dụng lúc đó Consuela sẽ thuyết giảng Lời Chúa! (Trích
báo Kiến Thức số 59, ra ngày 1/5/1991)
Vậy
để làm cho Chúa Thánh Thần đến với mọi người, mỗi Ki-tô hữu phải biết nối dài
và mở rộng nghi thức “đặt tay” trong ngày lãnh nhận Bí tích Thêm Sức, đặc biệt
là Bí tích Truyền Chức Thánh. Ý nghĩa “đặt tay” khơi nguồn từ Đức Ki-tô được
tôn vinh trên thập giá, như thánh Gio-an nói: “Thánh Thần chỉ xuất hiện khi Đức Ki-tô được tôn vinh” (x Ga 7,39),
nghĩa là sau khi Đức Giê-su nhúng tay vào việc tái tạo con người, Ngài chấp
nhận đến mất mạng, thì Ngài mới ban Thánh Thần cho ta. Thánh Thần cũng làm cho
ta phải nhúng tay vào việc truyền giáo. Vì thế Đức Giê-su nói vói các môn đệ: "Như Chúa Cha đã sai Thầy, thì Thầy cũng sai
anh em." Nói xong, Người thổi
hơi vào các ông và bảo: "Anh em hãy nhận lấy Thánh Thần. Anh em tha tội
cho ai, thì người ấy được tha; anh em cầm giữ ai, thì người ấy bị cầm giữ."
(Ga 20,21-23: Tin Mừng)
Vì
thế, khi các Tông Đồ thi hành sứ mệnh, họ cũng “đặt tay” trên các tín hữu để
trao ban Thánh Thần (x Cv 19,6). Để nói lên vai trò quan trọng của Chúa Thánh
Thần, ta có thể so sánh: Chúa Cha sinh chúng ta ; Chúa Con nuôi dưỡng ta và
Chúa Thánh Thần giáo dục và thánh hóa ta, mà việc giáo dục và thánh hóa đối với
loài người thì quan trọng hơn việc sinh, dưỡng ! Cũng như thân xác con người
muốn sống phải có nước, bánh, và khí ; Hồn ta được sống là nhờ có Chúa Cha,
Chúa Con, và Chúa Thánh Thần. Khí cần thiết nhất để xác được sống, thì Thánh
Thần cũng cần cho sự sống linh hồn ta vậy !
Trong
nghi thức “đặt tay”, phải đặt cả hai tay
:
- Đặt
tay phải trên ai là làm cho người đó được biết Lời Chúa, được hiệp thông với
Đức Kitô.
-
Tay còn
lại là giúp cho thân xác họ được sống khỏe.
Vậy
muốn chu toàn sứ mệnh cứu đời được Chúa Giê-su trao như Chúa Cha đã trao cho
Ngài, thì ta hãy cầu xin: “Lạy Chúa, xin
gởi Thánh Thần tới, và Ngài sẽ đổi mới mặt đất này” (Tv 104/103,30: Đáp
ca), đồng thời còn phải cầu xin với Chúa Thánh Thần: “Lạy Chúa Thánh Thần xin ngự đến, cho tâm hồn tín hữu được nhuần thấm
muôn ơn, và cháy lửa yêu mến Ngài” (Tung Hô Tin Mừng).
THUỘC LÒNG
Cộng đoàn nào cùng
nghe, cùng hiểu và thực hành Lời Chúa theo Hội Thánh dạy, chắc chắn cộng đoàn
đó là tháp Ba-ben mới đã chạm tới Trời ! (x St 11)
LM. GIUSE ĐINH QUANG THỊNH