Kinh Thánh
Thời kỳ
Sách
Chương
 
      Lm. Trịnh Ngọc Danh
Bài giảng
THỨ BA SAU CN 2 PS: CHÚA GIÊSU, ĐẤNG CỨU ĐỘ DUY NHẤT (tái sinh)
Âm thanh
Video
[ Bấm play 2 lần liên tiếp để xem video. Vui lòng chờ chút nếu kết nối mạng chậm ]
BÀI ĐỌC 1 VÀ 2 (NẾU CÓ)
BÀI ĐỌC : Cv 4, 32-37
32 Các tín hữu thời bấy giờ đông đảo, mà chỉ có một lòng một ý. Không một ai coi bất cứ cái gì mình có là của riêng, nhưng đối với họ, mọi sự đều là của chung.
Nhờ quyền năng mạnh mẽ Thiên Chúa ban, các Tông Đồ làm chứng Chúa Giê-su đã sống lại. Và Thiên Chúa ban cho tất cả các ông dồi dào ân sủng.
 Trong cộng đoàn, không ai phải thiếu thốn, vì tất cả những người có ruộng đất nhà cửa, đều bán đi, lấy tiền,35 đem đặt dưới chân các Tông Đồ. Tiền ấy được phân phát cho mỗi người, tuỳ theo nhu cầu.
Ông Giô-xếp, người được các Tông Đồ đặt tên là Ba-na-ba, nghĩa là người có tài yên ủi, có một thửa đất. Ông là một thầy Lê-vi quê quán ở đảo Sýp.37 Ông bán đất đi, lấy tiền đem đặt dưới chân các Tông Đồ.
ĐÁP CA : Tv 92
Đ.        Chúa là Vua hiển trị, Chúa mặc oai phong tựa cẩm bào.  (c 1a)
1ab Chúa là Vua hiển trị, Chúa mặc oai phong tựa cẩm bào, Người lấy dũng lực làm cân đai.
1c Chúa thiết lập địa cầu, địa cầu không lay chuyển.2 Ngai vàng Chúa kiên cố tự ngàn xưa:
Ngài hiện hữu tự muôn ngàn đời.
3 Sóng nước đã gầm lên, lạy Chúa, sóng nước đã gầm lên tiếng thét gào. Sóng nước đã gầm lên, long trời lở đất.
5 Lạy Chúa, thánh chỉ Ngài thật là bền vững, nơi đền vàng rực lên toàn thánh thiện triền miên qua mọi thời. 
BÀI TIN MỪNG
TUNG HÔ TIN MỪNG : x Ga 3,14b-15
Hall-Hall :  Con Người sẽ phải được giương cao, để ai tin vào Người thì được sống muôn đời. Hall.
TIN MỪNG : Ga 3, 7b-15
7b Khi ấy Đức Giê-su nói với ông Ni-cô-đê-mô rằng : “Các ông cần phải được sinh ra một lần nữa bởi ơn trên.8 Gió muốn thổi đâu thì thổi; ông nghe tiếng gió, nhưng không biết gió từ đâu đến và thổi đi đâu. Ai bởi Thần Khí mà sinh ra thì cũng vậy."
9 Ông Ni-cô-đê-mô hỏi Người: "Làm sao những chuyện ấy có thể xảy ra được? "10 Đức Giê-su đáp: "Ông là bậc thầy trong dân Ít-ra-en, mà lại không biết những chuyện ấy!11 Thật, tôi bảo thật ông: chúng tôi nói những điều chúng tôi biết, chúng tôi làm chứng về những điều chúng tôi đã thấy, nhưng các ông không nhận lời chứng của chúng tôi.12 Nếu tôi nói với các ông về những chuyện dưới đất mà các ông còn không tin, thì giả như tôi nói với các ông về những chuyện trên trời, làm sao các ông tin được? "13 Không ai đã lên trời, ngoại trừ Con Người, Đấng từ trời xuống.14 Như ông Mô-sê đã giương cao con rắn trong sa mạc, Con Người cũng sẽ phải được giương cao như vậy,15 để ai tin vào Người thì được sống muôn đời. 
BÀI GIẢNG
CHÚA GIÊSU, ĐẤNG CỨU ĐỘ DUY NHẤT
(Cv 4,12)
 
Để xác tín như lời thánh Phê-rô nói : “Vì dưới gầm trời này, không có một danh nào khác đã được ban cho nhân loại, để chúng ta phải nhờ vào danh đó mà được cứu độ" (Cv 4,12), khởi đi từ Bí tích Thánh Tẩy, ta phải tìm hiểu ý Chúa các Bài đọc được công bố trong Thánh Lễ hôm  nay.
-          Hiểu Lời Chúa qua phương pháp loại suy.
-          Hiểu về tương quan giữa các tôn giáo.
-          Ơn tái sinh khởi đi từ đâu và ai nói cho ta biết ?
-          Người Công Giáo sống thể hiện thế nào về giá trị ơn tái sinh của mình ?
 
I. HIỂU LỜI CHÚA QUA PHƯƠNG PHÁP LOẠI SUY
Phương pháp loại suy là ngôn ngữ và hình ảnh dùng trong Thánh Kinh, ta phải suy ra những điều không hợp mầu nhiệm Nước Thiên Chúa thì loại trừ, và chỉ đón nhận những gì phù hợp với giáo lý Hội Thánh mà thôi. Bởi vì đến như thánh Phao-lô đã được Chúa cho lên đến tầng trời thứ ba, khi trở về trần gian, ông chỉ có thể nói được rằng : “Tôi được nghe những lời khôn tả, người phàm không được phép nói lại” (2Cr 12,2-4). Có nghĩa là không có ngôn ngữ hình ảnh nào trên trần gian có thể dùng diễn tả hết được những điều tuyệt vời nơi Quê Trời. Vì ở trần gian khác hẳn với Thiên Đàng. Trong khi đó Đức Giê-su muốn cho con người  hiểu về mầu nhiệm Nước Thiên Chúa, thì Ngài lại phải dùng ngôn ngữ, hình ảnh, văn hóa của loài người. Mà loài người muốn có tư tưởng truyền đạt cho nhau thì phải bám vào vật hữu hình. Thí dụ ta nói cái này nặng quá, thì người nghe nghĩ ngay đến cục đá ; ta nói cái này nhọn quá, người nghe liên tưởng đến mũi kim ; ta nói cái này tròn quá, thì người nghe đương nhiên như nhìn thấy trái banh trước mặt ; hoặc một người đến Việt Nam muốn hiểu người VN, thì phải nói phải hiểu theo văn hóa của người Việt. Thí dụ tôi nói : tôi phải đi khám bác sĩ, thì người nghe phải hiểu rằng tôi đang bị bệnh, tôi phải đến bác sĩ khám bệnh cho tôi ; hoặc tôi nói : chúc anh chị trăm năm hạnh phúc, thì đôi tân hôn đó phải hiểu rằng suốt đời mình được hạnh phúc, chứ không phải sống trên trăm năm là bất hạnh. Cũng thế, ta vào rừng nói chuyện với dân tộc thiểu số, nếu ta nói với họ về một vật rất lớn, thì ta phải nói cái đó lớn hơn trái đất so với mặt trời, trong khi đó khoa học dạy ta biết mặt trời lớn hơn trái đất 50 lần.
Bởi vậy, Đức Giê-su nói với ông Ni-cô-đê-mô về ơn tái sinh : “Ông đừng ngạc nhiên vì tôi đã nói: các ông cần phải được sinh ra một lần nữa bởi ơn Trên.Gió muốn thổi đâu thì thổi; ông nghe tiếng gió, nhưng không biết gió từ đâu đến và thổi đi đâu. Ai bởi Thần Khí mà sinh ra thì cũng vậy." (Ga 3,7-8 : Tin Mừng). Ở đây Đức Giê-su dùng hình ảnh gió để chỉ về Chúa Thánh Thần, Thiên Chúa Ngôi thứ Ba, Ngài được ví như gió, nhưng Ngài lại không phải là gió. Tuy nhiên gió làm cho người ta sống, gió đến đâu hay đi đâu không ai thấy được, thì Chúa Thánh Thần cũng làm cho người ta được sống và không ai thấy Ngài.
Vậy muốn  hiểu Kinh Thánh  cho đúng, phải nghe Hội Thánh dạy ta hiểu những phạm trù nào Kinh Thánh dùng để diễn tả về mầu nhiệm Nước Thiên Chúa, phạm trù nào phải loại trừ. Không ai được lấy ý riêng mình mà giải thích Kinh Thánh ngoài Đức Tin truyền thống của Hội Thánh, khởi đi từ thời các Tông Đồ. Đó là lý do thánh Phê-rô nói : “Anh em phải biết điều này: không ai được tự tiện giải thích một lời ngôn sứ nào trong Sách Thánh.Quả vậy, lời ngôn sứ không bao giờ lại do ý muốn người phàm, nhưng chính nhờ Thánh Thần thúc đẩy mà có những người đã nói theo lệnh của Thiên Chúa” (2Pr 1,20-21).
II. HIỂU VỀ TƯƠNG QUAN GIỮA CÁC TÔN GIÁO.
Đức Giê-su nói: “Không ai đã lên trời, ngoại trừ Con Người, Đấng từ trời xuống” (Ga 3,13 : Tin Mừng). Hội Thánh dạy ta phải xác tín thế này: 
     
1- Mọi tôn giáo ngoài Ki-tô giáo đều phát xuất từ trái đất, từ lòng người (số 2), hy vọng dạy con người vươn lên tới cõi Vĩnh Phúc (1). Trong khi đó Ki-tô giáo từ Trời hay từ nơi Vĩnh Phúc (1) xuống trái đất, vào lòng người (2), để làm cho những thực tại ở trái đất được giống thực tại ở trên Trời, như Đức Giê-su đã dạy trong kinh Lạy Cha : “Xin cho ý Cha thể hiện dưới đất cũng như trên Trời” (Mt 6,10).
2- Giá trị các tôn giáo khác đưa hạnh phúc con người lên cao hay thấp tùy theo những chân lý trong đạo đó phù hợp nhiều hay ít với  những chân lý trong giáo lý của Hội Thánh Chúa Ki-tô.
3- Chỉ có Ki-tô giáo từ nguồn hạnh phúc vĩnh cửu (Trời) đến với con người, và cũng chỉ nhờ Hội Thánh Chúa Ki-tô làm Thân Mình Mầu Nhiệm của Ngài dẫn ta về Trời nguồn Vĩnh Phúc.
  
III. ƠN TÁI SINH KHỞI ĐI TỪ ĐÂU VÀ AI NÓI CHO TA BIẾT?
1- Con người được Thiên Chúa tái sinh do Ba Ngôi Thiên Chúa mạc khải, như Lời Đức Giê-su nói : “Chúng Tôi có biết, Chúng Tôi mới nói, và Chúng Tôi thấy Chúng Tôi mới làm chứng” (Ga 3,11 : Tin Mừng). Như thế, Đức Giê-su dựa vào Luật của người Do Thái để xác nhận một sự thật buộc mọi người phải tin : “Chứng của một người không đáng tin, nhưng chứng của hai ba người trở lên thì phải tin” (Dnl 19,15). Do đó, danh hiệu “Chúng Tôi” Đức Giê-su dùng là chỉ về Ba Ngôi Thiên Chúa thực hiện cuộc tái sinh con người tin vào Đức Giê-su là Thiên Chúa, như Ngài nói với các môn đệ : “Anh em hãy đi và làm cho muôn dân trở thành môn đệ, làm Phép Rửa cho họ nhân danh Chúa Cha,và Chúa Con và Chúa Thánh Thần” (Mt 28,19).
2- Việc tái sinh con người nhờ, với, trong Chúa Giê-su khởi đi từ nước trong tim Ngài dốc ra khi bị đâm trên thập giá (x Ga 19,34). Vì thế Đức Giê-su nói với ông Ni-cô-đê-mô : “Như ông Mô-sê đã giương cao con rắn trong sa mạc, Con Người cũng sẽ phải được giương cao như vậy,để ai tin vào Người thì được sống muôn đời” (Ga 3,14-15 : Tung Hô Tin Mừng).
Thời dân Do Thái còn đi trong sa mạc tiến về đất Hứa, họ bị rắn cắn, Chúa bảo ông Mô-sê đúc con rắn đồng treo lên cây cột, hễ ai bị rắn cắn mà nhìn lên con rắn đồng thì được sống (x Ds 21,4-9). Đó là hình ảnh tiên báo về Đức Giê-su bị treo trên thập giá, để những kẻ có tội biết sám hối mà nhìn lên Đức Giê-su xin Ngài thương xót như anh trộm lành, thì được Ngài cho vào Thiên Đàng ngay (x Lc 23,43), nhất là khi ta được tái sinh bởi xương thịt Chúa Giê-su để được đón nhận Chúa Thánh Thần nhờ Bí tích Thánh Thể (x Cv 2,38), hơn thuở xưa Chúa lấy xương thịt A-đam tạo nên E-và (x St 2,21-24).
IV. NGƯỜI CÔNG GIÁO THỂ HIỆN THẾ NÀO VỀ GIÁ TRỊ ƠN TÁI SINH CỦA MÌNH?
Các tín hữu thời Giáo Hội sơ khai cho chúng ta mẫu gương sống đạo :
1- Họ cùng một Đức Tin, một linh hồn (x Cv 4,32 : Bài đọc). Cụ thể phải hiểu là “họ chuyên cần nghe giáo lý của các Tông Đồ, hiệp thông Thánh Thể và kinh nguyện” (x Cv 2,42). “Vì Chúa là Vua hiển trị, mặc oai phong tựa cẩm bào” (Tv 93/92,1 : Đáp ca).
2- Họ tôn trọng nhau thể hiện bằng việc chăm sóc nhau. Cụ thể ai làm chủ đất đai hay nhà cửa thì họ bán đi và đem giá cả các vật bán được mà đặt dưới chân các Tông Đồ để phân phát cho mỗi người ai nấy tùy theo nhu cầu của mình, không còn ai phải túng thiếu (x Cv 4,34-37 : Bài đọc). Ở đây ta lưu ý dân đưa tiền của đặt dưới chân các Tông Đồ, chứ không đặt vào tay các ngài, vì người ta ý thức rằng của cải vật chất chỉ là bệ kê chân con người nhắc lên gần Thiên Chúa, còn bàn tay của họ, là bàn tay đón Chúa và phân phát ơn Ngài. Chính vì vậy mà giáo lý Hội Thánh trong điều răn V (điều răn mới trong sách Giáo Lý số 2041-2043) dạy con cái mình phải biết dùng tiền của đóng góp cho những nhu cầu của Hội Thánh tùy theo Đức Tin và lòng Mến mỗi người, để Hội Thánh có điều kiện làm phát triển Tin Mừng, và tạo nên những phương tiện phục vụ nhu cầu dân Thiên Chúa.
Ông John Rockfeller năm 33 tuổi, tài sản ông chỉ có vỏn vẹn 1.000 dollars cùng với cây xà-beng đi đào giếng mướn cho người ta, dần dần ông mua được một đàn bò, rồi nhiều đàn bò, bán bò ông mua nông trại, bán nông trại ông làm chủ một cơ sở lớn nhất nước Mỹ vào tuổi 43. Nhưng không may đến với ông khi ông được 53 tuổi : ông bị bệnh rụng hết tóc đầu! Hội Đồng Bác sĩ bảo ông chỉ sống thêm một năm nữa! Báo chí đưa hình hói đầu của ông lên trang nhất và chế giễu : “Ông không đủ tiền mua một sợi tóc!” Tỉnh ngộ ông bắt chước ông Gia-kêu : đưa tài sản chia sẻ cho các cơ quan từ thiện, cho những chương trình nghiên cứu khoa học phục vụ con người. Kết qủa ông đã sống thọ đến 98 tuổi (thay vì 54 như bác sĩ chẩn đoán).
Hãng Thông Tin Công Giáo Thế Giới loan đi ngày 02/03/2007 : Ông Fred Nassiri, một nhà tỷ phú ở nước Mỹ, ông là người gốc Iran theo đạo Hồi. Nhưng khi ông trở lại Công Giáo, ông dâng tất cả tài sản cho Dòng Phanxico khó khăn và xin gia nhập Dòng. Người ta phỏng vấn ông tại sao ông làm thế ? Ông trả lời : “Càng nhiều của cải, càng có nhiều nghĩa vụ với người xung quanh”.
Giáo sư Alfred Adler nói: “Kẻ nào không quan tâm tới người khác, chẳng những nó gặp nhiều khó khăn trên đời, mà còn là kẻ gây tác hại cho xã hội”.
Vậy ta hãy noi gương Mẹ Maria đoán ý muốn người khác để phục vụ (x Lc 1,39t ; Ga 2,3).
Thánh Phao-lô dạy: Hãy khó với mình nhưng quảng đại với Chúa và đồng loại (x 2Cr 6,12-13).
THUỘC LÒNG
Tôi sống, nhưng không còn phải là tôi, mà là Đức Ki-tô sống trong tôi. Hiện nay tôi sống kiếp phàm nhân trong niềm tin vào Con Thiên Chúa, Đấng đã yêu mến tôi và hiến mạng vì tôi. (Gl 2,20)

Linh mục GIUSE ĐINH QUANG THỊNH  

Gửi phản hồi - thắc mắc

Tên của bạn *
Địa chỉ
Email *
Điện thoại
   
Câu hỏi

Lên đầu trang
Các bài giảng khác: