Kinh Thánh
Thời kỳ
Sách
Chương
 
      Lm. Trịnh Ngọc Danh
Bài giảng
LỄ VỌNG PHỤC SINH NĂM A
Âm thanh
Video
[ Bấm play 2 lần liên tiếp để xem video. Vui lòng chờ chút nếu kết nối mạng chậm ]
BÀI ĐỌC 1 VÀ 2 (NẾU CÓ)
CÁC BÀI ĐỌC: 
St 1,1- 2, 2 ; St 22,1-18 ; Xh 14,15-15,1 ; Is 54,5-14 ; Is 55,1-11 ; Br 3,9-15.32-4,4 ; Ed 36,16-17a.18-28 ; Rm 6,3-11 
BÀI TIN MỪNG
TIN MỪNG: Mt 28,1-10
1 Chiều ngày sa-bát, khi ngày thứ nhất trong tuần vừa ló rạng, bà Ma-ri-a Mác-đa-la và một bà khác cũng tên là Ma-ri-a, đi viếng mộ.2 Thình lình, đất rung chuyển dữ dội: thiên thần Chúa từ trời xuống, đến lăn tảng đá ra, rồi ngồi lên trên;3 diện mạo người như ánh chớp, và y phục trắng như tuyết.4 Thấy người, lính canh khiếp sợ, run rẩy chết ngất đi.5 Thiên thần lên tiếng bảo các phụ nữ: "Này các bà, các bà đừng sợ! Tôi biết các bà tìm Đức Giê-su, Đấng bị đóng đinh.6 Người không có ở đây, vì Người đã trỗi dậy như Người đã nói. Các bà đến mà xem chỗ Người đã nằm,7 rồi mau về nói với môn đệ Người như thế này: Người đã trỗi dậy từ cõi chết, và Người đi Ga-li-lê trước các ông. Ở đó, các ông sẽ được thấy Người. Đấy, tôi xin nói cho các bà hay." 8 Các bà vội vã rời khỏi mộ, tuy sợ hãi nhưng cũng rất đỗi vui mừng, chạy về báo tin cho môn đệ Đức Giê-su hay.
9 Bỗng Đức Giê-su đón gặp các bà và nói: "Chào chị em! " Các bà tiến lại gần Người, ôm lấy chân, và bái lạy Người.10 Bấy giờ, Đức Giê-su nói với các bà: "Chị em đừng sợ! Về báo cho anh em của Thầy để họ đến Ga-li-lê. Họ sẽ được thấy Thầy ở đó." 
BÀI GIẢNG

CHÚA GIÊ-SU PHỤC SINH

LÀM HOÀN TẤT CÔNG TRÌNH SÁNG TẠO

Điểm độc đáo của Ki-tô giáo là minh chứng về sự sống lại khởi đi ngay từ đời này, và chỉ những ai được sống lại với Chúa Giê-su Phục Sinh, mới được Ngài mời gọi cộng tác để xây dựng Nước Thiên Chúa cho con người dung thân.

I/ PHỤC SINH LÀ MỘT CHÂN LÝ XÁC THỰC.

Những kẻ theo Đức Giê-su từ chỗ thất vọng về Ngài đến liều mạng minh chứng Ngài đã từ cõi chết sống lại:

1- Những người thân tín Đức Giê-su  thất vọng về Ngài .

a. Môn đệ Đức Giê-su sợ hãi chạy trốn, chỉ có hai ông không thuộc Nhóm Mười Hai, đó là ông Giuse quê tại Arimathia, hằng ngóng đợi Nước Thiên Chúa (x Lc 23, 50-51), và ông Ni-cô-đê-mô hằng ấp ủ ơn tái sinh, từ lúc ông thụ giáo với Đức Giê-su suốt đêm (x Ga 3). Hai ông này vẫn hy vọng Đức Giê-su sẽ giải phóng dân Do Thái thoát ách thống trị  Roma. Các ông cũng muốn làm môn đệ Đức Giê-su, nhưng vì sợ người Do Thái, nên các ông theo Ngài cách lén lút. Khi các ông thấy Đức Giê-su bị án tử cách bất công, khiến lòng tin của các ông dao động bàng hoàng. Trong tâm trạng ấy, hai ông rủ nhau đến xin tổng trấn Phi-la-tô cho hạ xác Đức Giê-su xuống để đem an táng trong mộ. Đây là hành động tiên tri: Các ông lãnh lấy “một niềm tin” đem chôn vào lòng đất, để hạt giống lúa mì này nảy mầm sinh nhiều bông hạt, cho loài người được sống cách dồi dào (x Ga 19,38t ; 12,24).

b. Các phụ nữ đã từng theo hầu Đức Giê-su  biết rõ cửa mộ đã bị niêm phong, và có lính canh phòng cẩn mật, thì sáng hôm sau, các bà tò mò ra mộ xem ! (x Mt 27,62-66 ; 28,1). Nhưng tới mộ, họ thấy động đất lớn và có các thiên thần mặc áo trắng rạng ngời như mặt trời đến đẩy tảng đá che cửa mộ ra và ngồi trên đó (x Mt 28,2-3). Đây là dấu hiệu Thiên Chúa xuất hiện như Ngài đã từng tỏ mình ra cho ông Mô-sê ở núi Xi-nai (x Xh 19,18), làm cho các chú lính canh mồ khiếp đảm, run rẩy ra như chết ! Còn các phụ nữ thì hoảng sợ và khóc lóc ! (x Mt 28,3-5)

2- Từ là những người chậm tin, dốt nát, và nhát sợ, trở thành vững tin, sáng suốt, can  đảm, làm chứng cho Chúa Giê-su Phục Sinh

Hai chứng lý xác thực và đáng tin nhất là :

a. Tâm hồn và Đức Tin của các môn đệ cũng như những người phụ nữ được biến đổi cách lạ thường, họ từng là những kẻ ngu dốt chậm tin (x Lc 24,25) trở thành những người thông minh sáng suốt, thậm chí họ nói tiếng Do Thái mà các dân tộc đều hiểu (x Cv 2).

b. Nhất là các môn đệ từng là những người run sợ chạy trốn, thủ lãnh thì chối Thầy khi Thầy bị bắt (x Mt 26,56.69-74), trở thành những người can đảm dám làm chứng cho Chúa Giê-su đã phục sinh, dù bị ra tù vào khám, với xiềng xích gông cùm, vẫn hân hoan đón nhận chẳng sợ chết (x Cv 5,17t).

II/ ĐỨC GIÊ-SU PHỤC SINH MỜI GỌI NHỮNG KẺ TIN NGÀI HÃY RAO GIẢNG VỀ NƯỚC THIÊN CHÚA, NHƯ NGÀI ĐÃ KHỞI ĐI TỪ GA-LI-LÊ ĐẾN CHẾT Ở GIÊ-RU-SA-LEM.

Ngay sau khi Đức Giê-su  phục sinh, chiến thắng mọi địch thù, đánh gục thần chết. Ngài không đến ngay với các môn đệ ở Giê-ru-sa-lem để lấy lại niềm tin cho các ông, mà Ngài lại bảo các ông phải về Ga-li-lê mới được gặp Ngài, để nhận lệnh đi rao giảng khắp thế gian (x Mt 28,16-20). Môn đệ chỉ có thể thi hành được nhiệm vụ này khi họ đã được trở nên chi thể trong Thân Mình Mầu Nhiệm Chúa Giê-su Phục Sinh, nhờ cử hành Phụng Vụ tại Nhà Thờ hằng ngày (x Lc 24,53). Từ đó, Ngài gọi môn đệ là “anh em của Ta” (x Mt 28,10), vì nhờ Phụng Vụ Đức Giê-su lập, con người trở thành cùng một nguồn gốc, cùng một xương thịt, cùng một sự sống với Chúa Giê-su (x Dt 2,11.14 ; Ga 6,57).

III/ NỘI DUNG SỨ ĐIỆP TIN MỪNG CÁC MÔN ĐỆ RAO GIẢNG.

1- Qua Bài đọc I (St 1,1-2,2): Thiên Chúa toàn năng sáng tạo muôn vật trong vũ trụ vô cùng tốt đẹp rồi trao tặng cho con người làm chủ.

a. Ngài toàn năng, chỉ một Lời Ngài phán ra, muôn vật liền xuất hiện cách tốt đẹp ; cuộc sáng tạo kỳ diệu đó cũng không sánh bằng nhờ Chúa Giê-su Phục Sinh, ai được sinh lại bởi Lời, người đó trở nên con Thiên Chúa, một tạo vật mới trong các loài thụ tạo (x Gc 1,18).

b. Vì chỉ có Ngài là Chúa Tể vũ trụ, nên muôn vật, kể cả các thần minh (tinh tú) đều dưới quyền sắp đặt và điều khiển của Ngài ; quyền năng ấy không sánh bằng khi Đức Giê-su từ cõi chết sống lại, mọi sự trên trời dưới đất Chúa Cha trao cho Ngài, Ngài lại trao ban cho các môn đệ làm chủ, đến nỗi các ông có quyền đóng mở cửa Trời (x Mt 28, 16t ; Ga 20,21t).

c. Thiên Chúa yêu thương loài người, cụ thể muôn vật tốt đẹp Ngài đã dựng nên đều làm quà tặng trao ban cho con người ; ơn ấy không sánh bằng Chúa Cha đã “thương thế gian đến nỗi ban Con của Người, ngõ hầu ai tin vào Ngài thì khỏi phải hư đi nhưng được sống đời đời” (Ga 3,16).

2- Qua Bài đọc II (St 22,1-18): Thiên Chúa thử thách ta trong tình yêu của Ngài.

a. Thiên Chúa yêu thương gia đình Abraham, cho ông sinh con trong lúc tuổi già ; không sánh bằng Thiên Chúa đã chọn Trinh Nữ Maria sinh Con Một Ngài cho thế gian được cứu độ (x Lc 1,26t).

b. Thiên Chúa lại thử thách tổ phụ Abraham nặng nề, Ngài bảo ông giết con trai duy nhất làm hiến lễ ; sự vâng phục ấy không sánh bằng Mẹ Maria dâng Con  Một cho Thiên Chúa, Mẹ đau đớn như lưỡi gươm đâm thâu lòng, nhất là lúc nhìn Con đã chết trên thập giá mà kẻ ác còn đâm nát tim (x Lc 2,34-35 ; Ga 19,34).

c. Người con yêu của ông Abraham cuối cùng cũng không chết vì đã có con chiên thế mạng, nhưng con chiên đó là hình bóng “Con Chiên Thiên Chúa”, Cha trên trời đã không tha mạng, dù Ngài đã tha mạng cho con một tổ phụ Ab-ra-ham, để trở thành lễ vật cứu chuộc loài người tội lỗi (x Ga 1,29 ; Rm 8,32).

3- Qua Bài đọc III (Xh 14,15-15,1a): Thiên Chúa, Đấng giải phóng con người khỏi nô lệ ác thần.

Xưa kia Thiên Chúa đã dùng cánh tay oai hùng của ông Mô-sê để đưa dân Do-Thái thoát ách nô lệ Ai-Cập, và vùi dập quân Ai-Cập cùng với chiến xa dưới lòng biển ; cuộc giải phóng ấy không sánh bằng nay Thiên Chúa dùng chính Con Một của Người là Đức Giê-su Ki-tô giải phóng con người thoát án phạt của Lề Luật, thoát thần chết, thoát satan, đưa con người vào Hội Thánh (Nước Thiên Chúa), nhờ nước Bí tích Thánh Tẩy, và nhờ chính Chúa Giê-su Phục Sinh (x Ga 3,5 ; Cv 2,38).

4- Qua Bài đọc IV (Is 54,5-14): Thiên Chúa, Đấng trung tín trong tình yêu.

Dù dân Chúa chọn đã được Ngài dẫn dắt, che chở, chăm sóc, hằng ngày Ngài nuôi họ bằng manna, nước tinh khiết từ tảng đá chảy ra, thế mà họ vẫn làm phiền lòng Chúa như những người vợ bội tình, nhưng Ngài vẫn không giận, không quở trách, ruồng rẫy, thậm chí dù núi có dời, đồi có chuyển, tình yêu Thiên Chúa vẫn không đổi thay. Ngài lấy ân lộc che chở, như lấy ngọc thạch, đá quý xây thành tường lũy bao bọc họ, để không sự dữ nào ám hại họ được ; Những ân lộc lớn lao ấy không sánh bằng người Ki-tô hữu mỗi ngày được mặc lấy Chúa Ki-tô khi hiệp dâng Thánh Lễ (x Gl 3,27), vì ta được ở trong vòng tay yêu thương, chăm sóc, gìn giữ của Chúa Cha và Chúa Con, nên không sự dữ nào giựt ta khỏi vòng tay Thiên Chúa toàn năng được (x Ga 10,27-30).

5- Qua Bài đọc V (Is 55,1-11): Thiên Chúa làm cho ta no thỏa sự sống.

Như một người khát nước, khát sữa, khát rượu, mà được hưởng dùng đầy cao lương mỹ vị, không phải trả đồng nào  ; cao lương ấy không sánh bằng ta được dự tiệc Thánh Thể, vì ai được ăn Chúa Giê-su, thì được Ngài biến tội ra ơn (x Rm 5,20), biến chết ra sống (x Ga 6,35-40), nên “ai được ở trong Chúa Giê-su thì không còn bị lên án  nữa, cho dù thân xác họ có chết vì tội đã phạm, Thánh Thần cũng làm cho họ được sống, vì họ đã được trở nên công chính trong Chúa Giê-su” (x Rm 8,1.10).

6- Qua Bài đọc VI (Br 3,9-15. 32-4,4): Thiên Chúa chính là sự khôn ngoan.

Người ta thường nói: “Khôn sống, dại chết !” Ai được kết hợp với Chúa Giê-su Phục Sinh , chính là kết hợp với “KHÔN NGOAN”, Ngài hướng dẫn cách thi hành Luật Chúa, như “KHÔN NGOAN” đã sắp đặt vạn vật, và điều khiển muôn loài theo ý Thiên Chúa. Bởi đó khi ta phải đương đầu với nghịch cảnh vì làm chứng cho Tin Mừng, mà bị điệu ra tòa án, lúc ấy Chúa Giê-su ban Thánh Thần để Ngài dạy ta nói điều phải nói trước mặt vua chúa quan quyền (x Lc 12,11-12).

7- Qua Bài đọc VII (Ed 36, 16-17a.18-28): Thiên Chúa quy tụ dân và đổi mới lòng họ.

Chúa quy tụ những kẻ ngỗ nghịch lại, Ngài ban Thần Khí trên họ, để Thần Khí sẽ đổi quả tim chai đá của họ bằng quả tim biết yêu thương. Với trái tim ấy, họ biết lắng nghe và tuân giữ Lời Chúa ! Đan cử ông Phao-lô vốn dĩ là kẻ hung ác, đi bách hại người Công Giáo vô tội (x Cv 9), được Chúa chộp lấy, biến ông thành Tông Đồ xuất sắc, không thua các Tông Đồ thượng đẳng (x 2Cr 11,5).

8- Qua Bài đọc VIII (Rm 6, 3-11): Để cụ thể con người đón nhận được ơn cứu độ, thánh Phao-lô kêu mời tất cả những ai đã tin vào Đức Giê-su Phục Sinh qua Phép Rửa của Ngài, thì họ không còn sống cho chính mình nữa, mà là sống nhờ, sống với, sống cùng Đức Ki-tô qua ba lần họ trầm mình vào nước hay ba lần được đổ nước, tương ứng với ba lần trong đời Đức Giê-su  tự hủy diệt (nhập thể, phép rửa, thập giá), để một khi họ cùng chịu khổ với Đức Ki-tô, thì cùng được chia phần vinh hiển với Ngài ! Vì  “gieo xuống thì hèn hạ, mà trỗi dậy thì vinh quang; gieo xuống thì yếu đuối, mà trỗi dậy thì mạnh mẽ, gieo xuống là thân thể có sinh khí, mà trỗi dậy là thân thể có thần khí(1Cr 15,43-44).

THUỘC LÒNG

Nếu Đức Ki-tô không sống lại, ai tin vào Ngài là kẻ khốn nạn nhất trên đời ! (1Cr 15,17-19)

http://phaolomoi.net

LM. GIUSE ĐINH QUANG THỊNH

Gửi phản hồi - thắc mắc

Tên của bạn *
Địa chỉ
Email *
Điện thoại
   
Câu hỏi

Lên đầu trang
Các bài giảng khác: