BÀI GIẢNG
GIỚI RĂN YÊU MỚI CỦA ĐỨC GIÊSU
Môn đệ Giu-đa đang ăn tiệc Vượt Qua với Thầy Giêsu và các anh em trong Nhóm Mười Hai, sau khi Đức Giê-su chấm miếng bánh trao cho Giu-đa, hắn liền bỏ bàn tiệc đi thông đồng với kẻ ác nhận 30$ để nộp Thầy, lúc đó là đêm tối (x Ga 13,30). Khi Giu-đa đi rồi, Đức Giê-su mới ban Giới Răn Mới cho 11 môn đệ còn ngồi lại. Như vậy Giu-đa không đón nhận Giới Răn Yêu Mới của Đức Giê-su ban.
Giới Răn Yêu Mới này Đức Giê-su ban trong lúc Ngài thiết lập Bí tích Truyền Chức và Bí tích Thánh Thể (Hy Tế Mới). Đây là Giới Răn nhằm diễn tả những điều mới trong Hy Tế Tình Yêu của Đức Giê-su và chức Linh mục Đức Giê-su thiết lập.
I. NHỮNG ĐIỀU MỚI TRONG HY TẾ TÌNH YÊU CỦA ĐỨC GIÊSU.
Để hiểu được Giao Ước Hy Tế Tình Yêu này, ta hãy so sánh với Giao Ước lễ tế của Do Thái giáo :
1/ Chức tư tế thời Cựu Ước trong dân Do Thái chỉ dành riêng cho dòng họ Lê-vi (x Xh 4,14 ; Ds 3,16).
Trái lại khi Con Thiên Chúa làm người, Ngài thuộc dòng Giuđa, con Vua Đavid, Ngài nhận lấy chức Tư Tế, để làm trung gian duy nhất giữa Thiên Chúa và loài người (x 1Tm 2,5-6), và Ngài thông ban chức này cho tất cả những ai thuộc về Ngài khởi đi từ Bí tích Thánh Tẩy.
2/ Tư tế thời Cựu Ước là người được chọn như Aharon trong dòng Lêvi, tư tế này không phải chết vì sứ vụ, dù ông giữ chức phát ngôn viên của ông Mô-sê (x Xh 4,14-17), nơi dân Israel (x Xh 4,27-31).
Trái lại, chức Tư Tế của Đức Giê-su thiết lập là phát ngôn viên của Thiên Chúa nơi mọi dân tộc, và phải chết vì sứ mệnh ngôn sứ.
3/ Lễ tế trong dân Do Thái: tư tế, lễ vật và bàn thờ khác nhau.
Trái lại, Hy Tế của Đức Giê-su thiết lập: vị tư tế, lễ vật và bàn thờ là một
(x Giáo Lý Roma số 1383 .1410).
4/ Của lễ của người Do Thái dâng là con chiên bị sát tế.
Trái lại, của lễ Đức Giê-su dâng chính là Ngài tự hiến tế.(x Dt 10,6-10)
5/ Lễ tế của người Do Thái chỉ là tỏ lòng biết ơn Chúa về biến cố Ngài dạy dân trong đêm Vượt Qua giết chiên ăn thịt, lấy máu bôi lên cửa. Khi thần Chúa đến Ai Cập, nhà nào không có máu chiên bôi lên cửa, thì các con đầu lòng của người cũng như loài vật bị giết (x Xh 12,1-8.11-14: Bài đọc I).
Trái lại, Hy Tế của Đức Giê-su thiết lập và truyền cho Hội Thánh cử hành, là làm hiện tại hóa cuộc Tử Nạn và Phục Sinh của Ngài. Ai được hiệp dâng, người ấy được Chúa Giê-su Phục Sinh giúp cho vượt qua từ tội lỗi đến ân sủng, từ sự chết đến sự sống, thoát nô lệ satan trở nên con Thiên Chúa. Vì thế, thánh Phao-lô nhắc lại mệnh lệnh của Đức Giê-su đã truyền cho Hội Thánh trong lúc Ngài lập Bí tích Thánh Thể: “Chúng con hãy làm việc này mà nhớ đến Thầy” (x 1Cr 11,23-26: Bài đọc II).
Như vậy lễ Vượt Qua của người Do Thái chỉ nhằm giải thoát dân Israel khỏi ách nô lệ Ai Cập về phần xác (x Xh 12,1-8.11-14: Bài đọc I).
Thua xa lễ Vượt Qua của Đức Giê-su nhằm giải phóng muôn dân vượt qua tội lỗi, thoát tay tử thần, để được sống hạnh phúc và vinh hiển trong Chúa Giê-su Phục Sinh.(x Ga 8,36 ; 10,10 ; Gl 2,20).
6/ Lễ vật dâng trong lễ tế Do Thái giáo, cuối cùng dành riêng cho hàng tư tế được no bụng.
Trái lại, lễ vật trong Hy Tế Mới của Đức Giê-su ban cho tất cả những ai đã thuộc về Ngài khởi đi từ Bí tích Thánh Tẩy, được hiệp thông cùng một sự sống với Thiên Chúa và được bình an, dù có chết cũng sống lại vinh hiển(Ga 6,27-57).
7/ Ý nghĩa máu con vật đổ ra trong lễ tế của Do Thái giáo chỉ là hình bóng thanh tẩy tội lỗi của dân, chứ thực ra máu con vật bị sát tế không thể tẩy xóa được tội lỗi ai (x Dt 10,4).
Thua xa Máu của Chúa Ki-tô đổ ra thanh tẩy tội lỗi người Ki-tô hữu có lòng sám hối và đến hiệp dâng Hy Tế với Chúa Giê-su, họ được đón nhận hai đặc ân này :
- Được tha tội (x Dt 8,12).
- Được đón nhận Di Chúc, hưởng gia nghiệp Nước Trời (x Dt 9,16).
(x Giáo Lý Roma số 1414.1416)
Bởi vậy chỉ khi ta tham dự Hy Tế của Chúa Giê-su là tiệc Vượt Qua của Ngài, ta mới được hân hoan cất lời kinh: “Biết lấy chi đền đáp Chúa bây giờ, vì mọi ơn lành Người đã ban cho. Tôi xin nâng chén mừng ơn cứu độ và kêu cầu Thánh Danh Đức Chúa”(Tv 116/115, 12-13: Đáp ca).
II. NHỮNG ĐIỀU MỚI TRONG CHỨC TƯ TẾ (LINH MỤC) CỦA ĐỨC GIÊSU THIẾT LẬP.
Sau đây là những điều mới trong chức Tư Tế của Đức Giê-su :
1- Chức Tư Tế và Của Lễ trong Tân Ước là một, khác với hy lễ thời Cựu Ước, nên thánh Phao-lô nói: “Trong khi nói “mới” thì Người đã cho Giao Ước thứ nhất là cũ, mà cũ, hủ, thì đã gần tàn” (Dt 8,13). Bởi vì vị Tư Tế thời Tân Ước là phải cho người khác ăn, kể cả lúc mình không đủ khả năng (x Mt 14,16). Cũng chính vì vậy mà cha Sơ-vi-ê nói: “Linh mục là người bị người khác ăn”.
2- Biết nhận và biết cho. Thật vậy, khi Đức Giê-su rửa chân cho các môn đệ, đến lượt ông Phê-rô, ông hoảng hốt la lên: “Không đời nào Thầy rửa chân cho con”, Đức Giê-su đáp lại: “Nếu Thầy không rửa chân cho con, con không có phần nào với Thầy” (Ga 13,8: Tin Mừng). Nói cách khác, ở đâu có tình yêu, ở đó có quà tặng. Vì quà tặng là dấu tình yêu chuyển lưu từ người này đến người khác.
Có một bà mẹ khi dự tiệc, người ta đưa cho bà trái cam để ăn tráng miệng, nhưng vì nghĩ đến đứa con ở nhà, nên bà bỏ trái cam vào túi.
Đứa con thấy mẹ về nên hớn hở chạy ra đón, bà liền trao trái cam cho con. Em bé mừng quýnh cám ơn mẹ, rồi định lấy dao bổ cam ra ăn cho đỡ thèm! Nhưng em chợt nghĩ đến bố đang đạp xích lô nắng nôi thiêu cháy ngoài đường, em thương bố nên cất trái cam đợi bố về để tặng bố.
Khi ông bố vừa về đến nhà, em bé cầm trái cam chạy đến nói :
- Thưa bố, chắc bố mệt lắm, con có trái cam biếu bố ăn cho đỡ mệt nè, để con phụ đem xích lô vào nhà cho.
Ông bố vô cùng cảm động trước cử chỉ của con, ông cám ơn con và định không nhận, nhưng em cứ nằng nặc đòi bố phải lấy ăn cho đỡ mệt!
Cầm trái cam vào nhà, ông định lấy dao bổ ra cho hai cha con ăn. Nhưng ông chợt nghĩ: con mình còn bé mà còn biết cách làm cho cha mẹ vui, sao mình không biết nghĩ đến vợ đang vất vả trong bếp? Vì ở đâu có tình yêu ở đấy có quà tặng! Thế là ông chồng cầm ngay trái cam vào bếp tươi cười chào vợ và nói :
- Anh đi làm về, không có gì để tặng em, chỉ có trái cam này, em dùng cho đỡ mệt.
Như thế cả gia đình vợ chồng con cái đã biết sống lời thánh Gio-an nói: “Đừng ai yêu bằng đầu lưỡi, nhưng yêu bằng việc làm thực sự!” (1 Ga 3,18).
Như vậy, chỉ riêng Thiên Chúa cho chúng ta biết bao món quà quý giá, mà Ngài không nhận lại điều gì, vì sự giàu sang vinh quang của Ngài không bao giờ vơi cạn. Loài người không ai có thể cho người khác điều gì tốt nếu không biết nhận từ nơi Thiên Chúa. Vì thế, những ân lộc Chúa ban cho, không chỉ để ta hưởng dùng, mà còn để chia sẻ diễn tả tình yêu chân thật của ta, đó là cách tạ ơn Chúa, vì thế trong kinh Tiền Tụng Tạ Ơn, Hội Thánh cất lời chúc tụng: “Việc tạ ơn của chúng con không thêm gì cho Chúa nhưng đem lại ơn cứu độ cho chúng con”.
3- Vị Tư Tế thời Tân Ước phục vụ lật ngược bảng giá trị chức vị người đời hành quyền.Đức Giê-su nhắc nhở các môn đệ: “Chúng con không được giống như các vua chúa trần gian bắt người khác phục vụ mình. Trái lại, trong chúng con ai muốn làm thủ lãnh thì phải làm tôi tớ mọi người, cũng như Con Người không đến để được người ta hầu hạ, nhưng là để hầu hạ và thí mạng sống mình làm giá chuộc thay cho nhiều người” (Mt 20,25-28). Trong bữa tiệc Vượt Qua, Đức Giê-su đã làm cử chỉ gây kinh ngạc cho các môn đệ: Ngài là Thầy, là Chúa rửa chân cho trò, là phàm nhân, Ngài nói: “Thầy đã rửa chân cho anh em, thì anh em cũng phải rửa chân cho nhau, như Thầy đã nêu gương cho anh em, ngõ hầu Thầy đã làm cho anh em thế nào, anh em cũng làm như vậy” (Ga 13,14-15). Nhất là phải làm tròn sứ mệnh cầu nguyện và giảng Lời. Giáo huấn của Công Đồng Vat.II trong Hiến Chế Phụng Vụ số 84 và 86 dạy: “Kinh Nhật Tụng được lập ra để thánh hiến trọn ngày đêm bằng lời ngợi khen Thiên Chúa. Các Linh mục dù đang miệt mài với công việc mục vụ thánh, càng cần sốt sắng chu toàn các giờ ngợi khen, nếu càng ý thức sống động hơn rằng: Mình phải tuân giữ lời căn dặn của Chúa Giê-su mà thánh Phao-lô nhắc lại: “Hãy cầu nguyện không ngừng” (Lc 18,1 ; 1Tx 5,17). Vì chưng chỉ một mình Chúa mới có thể ban hiệu quả và sự tiến triển cho công việc họ làm, bởi Chúa đã phán: “Không có Ta các con không thể làm được việc gì” (Ga 15,5). Vì thế khi thiết lập hàng Phó Tế, các Tông Đồ đã nói: “Về phần chúng tôi, chúng tôi sẽ chuyên tâm đến việc cầu nguyện và giảng dạy” (Cv 6,4)”.
Trong Sắc Lệnh Nhiệm Vụ Các Giám Mục, Hội Thánh cũng dạy: “Nhiệm vụ chính của Giám mục, của Linh mục là rao giảng toàn thể Mầu Nhiệm Chúa Ki-tô” (x số 11,12,15,22,30). Chính vì vậy mà Đức Giê-su vốn dĩ là Đấng toàn năng, nhưng đứng trước nhu cầu thân xác mọi người đang mong đợi Ngài thương giúp, thế mà Ngài lại lẩn trốn họ đi cầu nguyện và giảng Lời (x Mc 1,21-39).
Có lần các Tông Đồ mất ý thức sống theo mẫu gương phục vụ của Đức Giê-su, nên xao nhãng việc cầu nguyện và giảng Lời, vì để hết thời giờ vào việc phục vụ nhu cầu thân xác của đồng loại. Kết quả đã gây xáo trộn trong cộng đoàn ! Nhưng nhờ các Tông Đồ sớm tỉnh ngộ, trao công việc ấy cho các Phó tế, còn các ông trở về bổn phận chính là cầu nguyện và giảng Lời, từ bấy giờ cộng đoàn được bình an và phát triển (x Cv 6,1-7).
Cũng chính vì vậy mà Đức Giáo hoàng Gioan Phao-lô II nói: “Một nỗi nguy hiểm thường xảy ra nơi các giáo sĩ, là họ quá hăng say trong những công việc của Chúa, mà quên mất Chúa là Chủ công việc.”
4- Làm Tư Tế trong Đức Giê-su, khi phục vụ đồng loại không được chọn đối tượng, mà tất cả mọi người dù bạn hay thù, đều là những đối tượng ta phục vụ cách đồng đều theo khả năng của mình có, để nên giống Cha trên trời “đã làm mưa, làm nắng trên người công chính cũng như kẻ bất lương” (x Mt 5,45). Bởi thế, khi Đức Giê-su thiết lập chức Linh mục, Ngài đã tự trở nên như kẻ nô lệ: Trong bữa tiệc Ngài tự thắt lưng và rửa chân cho tất cả các môn đệ, không trừ Giu-đa, kẻ phản bội Ngài (x Ga 13,2-11: Tin Mừng).
5- Người Linh mục của Đức Giê-su phải bước xuống với đồng loại trước và đoán ý muốn người anh em để phục vụ.
a- Bước xuống với đồng loại để nên giống Chúa Giê-su, như Ngài nói với các môn đệ: “Không phải chúng con đã chọn Thầy, nhưng chính Thầy đã chọn chúng con” (Ga 15,16). Vì thế thánh Gioan nói: “Nơi điều này là thực lòng mến: là không phải vì ta đã yêu mến Thiên Chúa, nhưng chính Người đã yêu mến ta, và sai Con của Người đến làm hy sinh đền tội lỗi ta” (1Ga 4,10).
b- Đoán ý để phục vụ. Có lần “Đức Giê-su thấy người ta đang khiêng đi chôn con trai của bà góa mới qua đời, thấy bà khóc Ngài động lòng thương và nói với bà: “Đừng khóc nữa” Tiến lại gần Ngài đụng vào quan tài và các kẻ khiêng đứng lại, rồi Ngài nói: “Thanh niên, Ta bảo ngươi: hãy chỗi dậy”, và người chết ngồi chồm dậy và lên tiếng nói. Và Ngài trao cho mẹ nó!” (x Lc 17,11-17).
Các Linh mục phải bắt chước Chúa Giê-su, Ngài như một nô lệ rửa chân cho các môn đệ, không phải chỉ là tỏ dấu hạ mình phục vụ người khác, mà nhất là trở thành dấu chỉ các ngài đã được Chúa Giê-su thánh hóa. Tình yêu này các ngài phải thể hiện đến với người anh em đang sống trong lầm lạc, để dìu họ về với Chúa Giê-su hầu cũng được thanh tẩy (x Ga 13, 4-5).
6- Người Linh mục nhờ kết hợp nên một với Chúa Giêsu, để công việc phục vụ của ta mới được gọi là Đức Ái Ki-tô giáo có giá trị lưu tồn mãi đến cuộc sống muôn đời, mới thực sự tôn vinh Thiên Chúa. Chính vì thế mà Lời Thánh Kinh nói:
* Chính nhờ Đức Ki-tô, với Đức Ki-tô, trong Đức Ki-tô, mọi công việc ta làm mới chúc tụng tôn vinh Thiên Chúa (Rm 11,36).
* Nếu ta không kết hợp với Chúa Giê-su chính là Đức Ái (1Ga 4,8), thì cho dù ta có đem hết gia tài sự nghiệp chia sẻ, bằng lòng chịu thiêu đốt, thì cũng chẳng ích lợi gì cho ta (x 1Cr 13,3).
* Nếu ta làm điều tốt theo ý riêng mình mà không kết hợp với Đức Ki-tô Giê-su, thì công việc đó dù có tốt, chỉ là nhân bản, trước sau sẽ tan biến thành tro bụi ! Trái lại, nếu ta kết hợp với Đức Ki-tô Giê-su để phục vụ đồng loại, thì việc đó mới thực là Đức Ái Ki-tô giáo, có giá trị bền vững chuyển vào kho Trời cho ta hưởng dùng và không ai cướp mất được ! (x Cv 5,38-39)
7- Tất cả mọi sinh hoạt người Linh mục của Đức Ki-tô phải quy về ý hướng góp nên một của lễ với Chúa Giê-su (x 1Cr 3,22-23). Nên “dù ăn, dù uống, dù làm bất cứ việc gì, anh em hãy làm tất cả để tôn vinh Thiên Chúa” (1Cr 10,31). Đây là ý hướng về Hy Tế của Ngài, Ngài không thanh tẩy người ta bằng nước, nhưng bằng chính Máu của Ngài đổ ra trên thập giá. Đó là Hy Lễ Mới làm hoàn hảo lễ tế Do Thái giáo, hầu đem ơn cứu độ cho muôn người tin vào Đức Giê-su là Đấng Cứu Độ duy nhất mà đón nhận (x Cv 4,12 ; Ga 6,22t).
Bảy điểm giáo lý nói về chức Linh Mục Chúa Giê-su thiết lập chỉ có thể đạt được, khi một người tiến chức thể hiện Giới Răn Mới Chúa Giê-su đã sống làm gương và trao ban, như Ngài nói: “Thầy ban cho anh em một điều răn mới là anh em hãy yêu thương nhau, như Thầy yêu thương anh em” (Ga 13,34: Tung Hô Tin Mừng).
Chúng ta biết rằng chức Linh mục thừa tác (Giám mục, Linh mục) được đặt trên nền tảng chức Linh mục Cộng đoàn của tín hữu nhờ lãnh Bí tích Thánh Tẩy. Nói cách khác, không có chức Linh mục phổ quát của người Ki-tô hữu, thì không có chức Linh mục thừa tác. Do đó, chức Linh mục thừa tác được Chúa Giê-su chọn cho dân và vì dân. Bởi thế, trong Sắc Lệnh Nhiệm Vụ Giám Mục của Thánh Công Đồng Vat.II xác định: “Người dân luôn luôn đứng hàng đầu, vì chính họ là điều kiện đời sống và hoạt động của các chủ chăn” (x các số 11,12,13,22,23,39).
THUỘC LÒNG
+ Đức Giê-su nói: “Thầy ban cho anh em một Giới răn mới là anh em hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương anh em” (Ga 13,34).
+ Không có tình yêu nào cao quý hơn tình yêu của người hy sinh mạng sống vì bạn hữu của mình (Ga 15,13)
LM. GIUSE ĐINH QUANG THỊNH