Kinh Thánh
Thời kỳ
Sách
Chương
 
      Lm. Trịnh Ngọc Danh
Bài giảng
THỨ HAI TUẦN THÁNH: MARIA, MẪU NGƯỜI NGHE VÀ SỐNG LỜI CHÚA
Âm thanh
Video
[ Bấm play 2 lần liên tiếp để xem video. Vui lòng chờ chút nếu kết nối mạng chậm ]
BÀI ĐỌC 1 VÀ 2 (NẾU CÓ)
BÀI ĐỌC : Is 42,1-7
1 Đức Chúa phán : “Đây là người tôi trung Ta nâng đỡ, là người Ta tuyển chọn và quý mến hết lòng,Ta cho thần khí Ta ngự trên nó; nó sẽ làm sáng tỏ công lý trước muôn dân. 2 Nó sẽ không kêu to, không nói lớn, không để ai nghe tiếng giữa phố phường. 3 Cây lau bị giập, nó không đành bẻ gẫy,tim đèn leo lét, cũng chẳng nỡ tắt đi. Nó sẽ trung thành làm sáng tỏ công lý. 4 Nó không yếu hèn, không chịu phục, cho đến khi thiết lập công lý trên địa cầu. Dân các hải đảo xa xăm đều mong được nó chỉ bảo.5 Đây là lời Thiên Chúa, lời Đức Chúa, Đấng sáng tạo và căng vòm trời, ấng trải rộng mặt đất với hoa màu tràn lan, Đấng ban hơi thở cho dân trên mặt đất, ban sinh khí cho toàn thể cư dân. 6 Người phán thế này: "Ta là Đức Chúa, Ta đã gọi ngươi, vì muốn làm sáng tỏ đức công chính của Ta. Ta đã nắm tay ngươi,đã gìn giữ ngươi và đặt làm giao ước với dân, làm ánh sáng chiếu soi muôn nước, 7 để mở mắt cho những ai mù loà, đưa ra khỏi tù những người bị giam giữ, dẫn ra khỏi ngục những kẻ ngồi trong chốn tối tăm."
ĐÁP CA : Tv 26
Đ.        Chúa là nguồn ánh sáng và ơn cứu độ của tôi.  (c 1a)
1 Chúa là nguồn ánh sáng và ơn cứu độ của tôi, tôi còn sợ người nào? Chúa là thành luỹ bảo vệ đời tôi, tôi khiếp gì ai nữa? 
2 Khi ác nhân xông vào, định nuốt sống thân tôi, ai ngờ chính đối phương, chính những thù địch ấy, lại lảo đảo té nhào.
3 Dù cả một đạo quân vây đánh, lòng tôi chẳng sợ gì. Dù có phải lâm vào chiến trận, tôi vẫn cứ cậy tin.
13 Tôi vững vàng tin tưởng sẽ được thấy ân lộc Chúa ban trong cõi đất dành cho kẻ sống. 14 Hãy cậy trông vào Chúa, mạnh bạo lên, can đảm lên nào! Hãy cậy trông vào Chúa.
 
BÀI TIN MỪNG
TUNG HÔ TIN MỪNG :
Muôn lạy Chúa Ki-tô, chỉ có Ngài thương đến thần dân tội lỗi.
TIN MỪNG : Ga 12,1-12
1 Sáu ngày trước lễ Vượt Qua, Đức Giê-su đến làng Bê-ta-ni-a, nơi anh La-da-rô ở. Anh này đã được Người cho sống lại từ cõi chết.2 Ở đó, người ta dọn bữa ăn tối thết đãi Đức Giê-su; cô Mác-ta lo hầu bàn, còn anh La-da-rô là một trong những kẻ cùng dự tiệc với Người.3 Cô Ma-ri-a lấy một cân dầu thơm cam tùng nguyên chất và quý giá xức chân Đức Giê-su, rồi lấy tóc mà lau. Cả nhà sực mùi thơm.4 Một trong các môn đệ của Đức Giê-su là Giu-đa Ít-ca-ri-ốt, kẻ sẽ nộp Người, liền nói:5 "Sao lại không bán dầu thơm đó lấy ba trăm quan tiền mà cho người nghèo? "6 Y nói thế, không phải vì lo cho người nghèo, nhưng vì y là một tên ăn cắp: y giữ túi tiền và thường lấy cho mình những gì người ta bỏ vào quỹ chung.7 Đức Giê-su nói: "Hãy để cô ấy yên. Cô đã giữ dầu thơm này là có ý dành cho ngày mai táng Thầy.8 Thật vậy, người nghèo thì bên cạnh anh em lúc nào cũng có; còn Thầy, anh em không có mãi đâu."9 Một đám đông người Do-thái biết Đức Giê-su đang ở đó. Họ tuôn đến, không phải chỉ vì Đức Giê-su, nhưng còn để nhìn thấy anh La-da-rô, kẻ đã được Người cho sống lại từ cõi chết.10 Các thượng tế mới quyết định giết cả anh La-da-rô nữa,11 vì tại anh mà nhiều người Do-thái đã bỏ họ và tin vào Đức Giê-su.
 
 
BÀI GIẢNG

MARIA,
MẪU NGƯỜI NGHE VÀ SỐNG LỜI CHÚA
 
Cô Maria, em của Matta được hai thánh sử Luca và Gioan ghi lại những nét đẹp trong đời sống Đức Tin của cô :
1/ ÔNG LUCA GHI LẠI LỜI ĐỨC GIÊ-SU KHEN CÔ MARIA CÓ TẤM LÒNG NGHE LỜI CHÚA.
Đức Giê-su vào nhà hai chị em Matta và Maria, đối với Ngài, lương thực Ngài ưa thích không phải là của vật chất, mà là làm theo ý Chúa Cha sai (x Ga 4,31-34). Thế mà cô Matta chỉ chú ý dọn bàn nhiều món để mời Thầy Giêsu, làm sao được Đức Giê-su hài lòng bằng Maria em cô cứ ngồi dưới chân Ngài để nghe giảng dạy, vì Ngài muốn chu toàn sứ mệnh ngôn sứ, là đặt Lời Chúa vào lòng người, như ngôn sứ Isaia đã nói trước về sứ mệnh của Ngài : “Ta đã ban Thần Khí của Ta trên Người, Người sẽ làm rạng phán quyết ra cho các nước, bởi vì nhờ Lời Chúa đã tác tạo vạn vật trong hoàn vũ làm quà tặng cho con người, và ban hơi thở cho dân trên trần gian, và nhờ Lời Chúa đã dẫn dắt mọi người làm ánh sáng cho các nước. Để mở mắt cho kẻ mù lòa, để đưa tù nhân ra khỏi cảnh lao tù, những người ngồi trong bóng tối sự chết” (Is 42,1-7 : Bài đọc).
Cô Maria biết chị Matta không bằng lòng để cô ngồi dưới chân Thầy Giê-su nghe giảng, vì cô chị muốn cô em xuống bếp phục vụ để sớm có bữa ăn chu đáo mời Thầy. Nhưng cô em đã gạt  bỏ những việc ấy, dù cô chị tưởng việc đó là quan trọng nhất, nên chị đã sấn lại bên Đức Giê-su mà phàn nàn : “Thưa Thầy, Thầy không màng nghĩ tới sao, em tôi để tôi một mình phục dịch ? Vậy xin Thầy bảo nó đỡ đần tôi với”. Nghe thế, Đức Giê-su lên tiếng bênh vực cô em, và đưa cô lên như con người phục vụ mẫu mực, Ngài nói : “Matta, Matta, con lo lắng xôn xao về nhiều chuyện quá, chỉ có một chuyện cần thiết mà thôi, Maria em con đã chọn phần tốt nhất, và không bị ai GIỰT mất!” (x  Lc 10,38-42).
Ta lưu ý Đức Giê-su khen người có tấm lòng nghe Lời Chúa như cô Maria, thì “không bị GIỰT mất”, đó là đã “chọn phần tốt nhất”, vì
a-     Được Chúa Cha và Chúa Con gìn giữ người ấy, không để sự dữ nào giựt họ khỏi tay quyền  năng và yêu thương của Thiên Chúa được (x Ga 10,27-30).
b-     Được Đức Giê-su yêu thương họ bằng mối tình phu-thê, như ngôn sứ Hô-sê thổ lộ lòng trung tín và yêu thương của ông đối với cô vợ đàng điếm. Ông nói : “Phen này ta sẽ lột trần cái đĩ già của vợ ta trước mặt các gã tình lang, để không ai GIỰT vợ khỏi tay ta” (Hs 2,12 : Bản dịch NTT).
2/ ÔNG GIOAN GHI LẠI BÀN TAY PHỤC VỤ CỦA CÔ MARIA ĐÚNG LÚC VÀ PHẢI THỜI.
a- Cô Maria phục vụ đúng lúc, hợp tâm lý. Đan cử :
Sau khi Đức Giê-su cho Ladaro, em của Matta và Maria sống lại, cô Matta lại dọn tiệc mừng, mà cô không biết rằng vì Thầy Giêsu cho Ladaro em cô sống lại, nên những kẻ thù ghét Đức Giê-su đang rình rập chung quanh nhà, để bắt được Đức Giê-su và còn muốn giết luôn cả Ladaro cho mất tang chứng về sự phục sinh Đức Giê-su đã ban. Lúc ấy, chỉ có cô Maria đọc được tâm tư đau khổ của Đức Giê-su : Thầy sẽ bị giết chết vì cho em cô sống lại. Theo phong tục Do Thái, để tỏ lòng thương mến người qua đời, thì người ta đưa dầu thơm ra mộ xức xác người quá cố. Nhưng lúc ấy, người chết đâu có cảm nhận được tình thương của người sống dành cho. Do đó cô Maria đã mua dầu thơm đổ vào chân Thầy Giêsu ngay lúc Thầy còn sống, để tỏ ý tẩm liệm xác Thầy. Vậy cô Maria nhờ có tấm lòng nghe Lời Chúa, biết phục vụ đúng lúc Thầy Giêsu biết mình sẽ phải chết vì cứu sống em cô. Hành động này đã dạy cho chúng ta bài học: Muốn tỏ lòng hiếu thảo biết ơn ai, ta hãy tỏ ra lúc họ còn sống, chứ đừng theo thói đời “sống không cho ăn, chết làm văn tế ruồi”.
Có ông cụ gìa, mỗi khi đến bữa cơm, ông cụ thường làm cho người con trai bực mình vì tuổi già sức yếu của cụ. Có lần, bàn ăn vừa mới dọn ra, ông cụ nhìn thấy tô canh ngon, liền bưng lên húp một hơi, con trai cụ nhìn thấy quát :
- Bố ăn uống thế, ai còn muốn ăn tô canh đó nữa!
Rồi anh con trai cầm lấy tô canh hất ra ngoài vườn. Nhất là mỗi lần ông cụ cầm chén cơm lên ăn, vì tay chân run rẩy, nên cụ thường làm vỡ chén, anh con trai thấy thế lại quát bố :
- Nhà có mấy cái chén đập hết rồi, từ nay ăn cơm lấy tay mà bốc!
Thế là người con trai có sáng kiến : làm một cái máng nhỏ bằng gỗ, giống như máng heo, để cho bố dùng thay vì cầm chén, như thế nếu có rớt xuống thì cũng không sao!
Khi cụ già qua đời, con trai cho khu xóm biết lòng hiếu thảo của mình với bố, nên mướn kèn trống thổi inh ỏi suốt cả ngày đêm!! Sau khi đã an táng bố xong, người con trai lấy “chén” gỗ ném ra vườn sau nhà. Thằng cháu nội thấy vậy chạy ra nhặt vào. Anh thắc mắc hỏi con :
- Ông mày đã chết, tao vất chén đó đi, mày còn lấy vào làm gì !?
- Dạ, thưa ba, con nhặt về để khi ba già con sẽ đưa cho ba dùng, con khỏi phải làm cái khác.
Hãy nhớ lời Chúa Giê-su dạy : “Anh em đong bằng đấu nào, thì sẽ được Thiên Chúa đong trả lại bằng đấu ấy!” (Mt 7,2).
Vậy “Con ơi, hãy săn sóc cha con, khi người đến tuổi già ; bao lâu người còn sống, chớ làm người buồn tủi. Người có lú lẫn, con cũng phải cảm thông, chớ cậy mình sung sức mà khinh dể người.” (Hc 3,12-13).
b- Phục vụ phải thời.
Cô Maria lấy dầu thơm đổ vào chân Đức Giê-su, dưới cái nhìn  của những kẻ mê tiền như Giuda, thì hắn lên tiếng phản đối : “Phí quá, bán bình dầu ấy được 300 đồng quan cho kẻ nghèo có lý hơn!” Thực ra, không phải hắn có ý lo cho người nghèo, nhưng vì hắn là tên ăn cắp, lại được giữ túi tiền của Nhóm, nên có gì bỏ vào thì hắn phỗng mất ! Đức Giê-su lên tiếng bênh vực : “Để mặc chị ấy, ngõ hầu chị còn giữ lại cho ngày liệm táng Ta, vì kẻ nghèo khó các ngươi vẫn có luôn bên các ngươi ; còn Ta, không phải bao giờ các ngươi cũng có” (Ga 12,3-8 : Tin Mừng).
Lời này Đức Giê-su  có ý nói : Cho dù người ta có đưa hết tiền của chia sẻ cho người nghèo, thì người nghèo vẫn có bên cạnh, và sinh lười biếng, chỉ đợi người khác cho ! Bởi đó càng nhiều người nghèo đến quấy rầy chúng ta hơn! Cho nên chẳng có cách nào giải quyết được hết người nghèo, trừ khi nào ai cũng đầy Chúa, ai cũng giàu có về Thiên Chúa, như các tín hữu thời Giáo Hội sơ khai chẳng ai thiếu thốn gì (x Cv 2,44-45).
Chúng ta để ý câu nói của Đức Giê-su : “Cô Ma-ri-a đã giữ dầu thơm này là có ý dành cho ngày mai táng Thầy !” (Ga 12,7 : Tin Mừng). Thực tế, cô Ma-ri-a nào có giữ dầu thơm dành cho ngày mai táng Đức Giê-su đâu? Bằng chứng là khi Đức Giê-su  đã được an táng trong mồ, cô Ma-ri-a, em của Mát-ta đâu có đưa dầu thơm ra mộ xức xác Đức Giê-su, mà là bà Ma-ri-a Mác-đa-la. (x Mc 16,1)
Thế thì chúng ta phải hiểu Lời Đức Giê-su  nói : “Cô Ma-ri-a giữ dầu thơm dành cho ngày mai táng Thầy”, là Ngài muốn chúng ta phải biết dùng tiền của “mai táng” Ngài  vào lòng tha nhân.
Vậy chúng ta đã hao tốn bao nhiêu tiền để phát triển Tin Mừng, để xây dựng Hội Thánh ? Đó là cách mai táng Chúa Giê-su mà Ngài vẫn hằng mong mỏi như Ngài đã thốt lên “Ta khát” khi bị treo trên thập giá (x Ga 19,28).
Nếu chúng ta đã xác định : Tiền của chia sẻ cho đồng loại là cách cụ thể tôn trọng nhau, tại sao chúng ta lại xử bất công với Đức Giê-su, không tôn trọng Ngài, khi chúng ta không biết dùng tiền của mai táng Chúa vào tâm hồn đồng loại!? Đó là lý do Đức Giê-su  đã nói “dành dầu cho ngày mai táng Thầy”. Trước khi Ngài nói “người  nghèo các ngươi vẫn có bên cạnh” (x Ga 12,7-8). Như vậy, rõ ràng Đức Giê-su  muốn chúng ta làm cho Ngài trước, sau đó mới làm cho tha nhân. Sống như thế mới thực hành Giới răn quan trọng nhất : Mến Chúa (trước), Yêu người (sau) !
Thánh Kinh dạy : “Ta được dựng nên giống hình ảnh Thiên Chúa” (St 1,26), không phải giống Chúa vô hình ở trên trời, mà là giống Con Thiên Chúa làm người, và như trên chúng ta đã biết : khi làm người, Con Thiên Chúa chỉ muốn đặt Lời Chúa vào lòng mọi người, thì ta cũng phải giống Chúa ở điểm này, là ta tiếp tục “mai táng Lời Chúa vào lòng tha nhân”, như Đức Giê-su đã nói về ý nghĩa việc xức dầu của cô Maria, để mọi người trở nên Đền Thờ đích thực của Thiên Chúa (x 1Cr 3,16-17). Đền Thờ Giêrusalem được Chúa hướng dẫn vua Salomon xây, nhằm mục đích đặt hai bia đá ghi Lời mà Chúa đã trao ông Mô-sê để ban lại cho dân. Bởi đó, ai được Lời Chúa ở cùng, thì hân hoan nói như ngôn sứ Giêrêmia : “Vừa gặp Lời Chúa tôi nuốt chửng, Lời Chúa làm hoan lạc đời tôi, vì trên tôi danh Ngài được kêu khấn” (Gr 15,16).
-    Nuốt chửng Lời Chúa” vì quá ngon, quá bổ nhưng cũng quá đắng vì là thuốc dã tật (x Kn 16,12 ; Kh 10,10)
-    Trên tôi danh Chúa được kêu khấn”, tức là Lời Chúa không còn ghi trên hai tấm bia đá như xưa, mà bởi quyền  năng  Thánh Thần, Hội Thánh ghi Lời trên tấm linh hồn và thân xác ta (x 2Cr 3,3).Có thế ta mới là “hương thơm của Đức Giê-su, xông ra giữa những người được cứu độ và những kẻ bị hư đi” (2Cr 2,15), cũng như ta làm ứng nghiệm Lời Chúa chúc phúc cho dòng giống tổ phụ Abraham : “Mọi dân thiên hạ sẽ lấy dòng giống ngươi mà cầu phúc cho nhau,bởi vì ngươi đã vâng nghe Lời Ta” (St 22,18).
Ta còn nhớ Lời Thánh Kinh vẫn đọc : “Lời Chúa là ánh sáng, là đèn soi cho con bước” (Tv 119/118,105). Cũng như “Chúa là nguồn ánh sáng và ơn cứu độ của tôi, tôi còn sợ người nào. Chúa là thành lũy bảo vệ đời tôi, tôi khiếp gì ai nữa” (Tv 27/26,1 : Đáp ca). Bởi vì “muôn lạy Chúa Ki-tô, chỉ có Ngài thương đến thần dân tội lỗi” (Tung Hô Tin Mừng)
THUỘC LÒNG
+ Tôi cầm lấy cuốn sách nhỏ từ tay thiên thần và nuốt đi. Trong miệng tôi nó ngọt ngào như mật ong, nhưng khi tôi nuốt rồi, thì bụng dạ tôi cay đắng (Kh 10,10).
+ Vừa gặp Lời Chúa tôi nuốt chửng, Lời Chúa làm hoan lạc đời tôi, vì trên tôi danh Ngài được kêu khấn (Gr 15,16).
Linh mục GIUSE ĐINH QUANG THỊNH
 

Gửi phản hồi - thắc mắc

Tên của bạn *
Địa chỉ
Email *
Điện thoại
   
Câu hỏi

Lên đầu trang
Các bài giảng khác: