BÀI GIẢNG
THIÊN CHÚA LÀ CỜ TRẬN CỦA TÔI !
(Xh 17,15)
Người Công Giáo ai cũng phải đương đầu với ba kẻ thù :
- Dục vọng của bản thân.
- Hấp lực của thế gian.
- Cạm bẫy của Satan.
Trong ba thù ấy thì dục vọng bản thân đứng hàng đầu, ai thắng được nó, hai kẻ thù còn lại sẽ run lẩy bẩy.
Kẻ nội thù thì không ai có thể thắng được, thậm chí đến vị Thánh cột trụ của Giáo Hội là Phaolô cũng phải thú nhận với giáo dân về sự bất lực của ông, khi dục vọng trong ông nổi dậy:
- “Chẳng có sự lành cư ngụ trong xác thịt tôi, điều lành tôi muốn, tôi không làm, còn sự dữ tôi không muốn tôi lại cứ thi hành !” (Rm 7,18-19)
Và ông còn thú nhận :
- “Để làm cho tôi đừng quá tự tôn về những mạc khải cao siêu Chúa đã ban cho tôi, Ngài để tôi được một cái dằm đâm vào thân xác, một thần sứ satan được sai đến để nó vả mặt tôi. Về điều ấy đã ba lần tôi nài van Chúa cho nó rời khỏi tôi. Nhưng Ngài đã phán bảo tôi : Ơn Ta đủ cho ngươi, vì chưng quyền năng của Thiên Chúa được bày tỏ cách hoàn hảo trong yếu đuối” (2Cr 12,7-10).
Dầu thánh Tông Đồ cảm nghiệm được sức mạnh của xác thịt ông như thế, nhưng ông vẫn nhận ra tình thương của Chúa :
- “Chúa dồn hết mọi người vào hàng bất tuân, để Ngài dủ lòng thương xót” (Rm 11,32).
- “Ở đâu tội lỗi gia tăng, ở đó ân sủng Chúa ban siêu bội” (Rm 5,20).
Lý do ông Phaolô vẫn nhận ra ý muốn cứu độ loài người của Thiên Chúa còn mạnh hơn cả thần chết như thế là, vì ông đã được gia nhập Hội Thánh Công giáo, một Hội Thánh được mang danh từ nơi Chúa ban tặng : “Hòa Bình Của Công Bằng” và “Vinh Quang Của Thương Xót” (Br 5,4), để mọi người đã thuộc về Chúa phải hô lên rằng : “Đức Chúa, Đức Chúa, Ngài chạnh thương, huệ ái, bao dung và đầy nhân nghĩa, tín thành” (Xh 34,6). Hội Thánh, Mẹ chúng ta được mang danh ấy, chỉ vì Hội Thánh là Hiền Thê Chúa Kitô, đã nghe, hiểu và thực hành lời Đức Lang Quân nói với Hiền Thê : “Thầy đã đến ném lửa vào mặt đất, và Thầy những ước mong phải chi lửa ấy đã bùng lên” (Lc 12,49 : Tin Mừng).
Tính chất của lửa thì bùng ra khắp thế gian, thẩm thấu và len lỏi vào mọi môi trường, làm cho vật tiếp xúc với nó bị đồng hóa, như lửa thấm vào thanh sắt làm cho sắt trở thành thanh lửa. Lửa còn thanh tẩy mọi xu uế, tiêu diệt vi trùng, duy trì và phát huy sự sống, soi dẫn đường lối chỉ cho con người biết việc phải làm ; lửa (ánh sáng) còn làm cho ta phân biệt được tốt, xấu, để ta thưởng thức được muôn vẻ đẹp của vạn vật. Dầu tính chất của lửa đa hệ như thế, nhưng nó chỉ là dấu chỉ của Lửa do Chúa Giêsu đưa đến mà thôi. Vì Lửa Ngài đem xuống trần gian, lòng Ngài những ước mong bùng cháy lên, Lửa đó chính là LỜI CHÚA (x Gr 23,29 ; Cv 2,3-4), và Lửa thiêu đốt cũng chính là Ngài (x Dt 12, 29) đã từ trời xuống soi sáng tâm hồn có trái tim biết đón nhận “Lửa” của Ngài đưa đến, khiến họ năng động hơn ba chú bé nhảy mừng trong lò lửa (x Dn 3,24t).
“Lửa Lời Chúa” và “Lửa Giêsu” đó là hai bàn tiệc trong Thánh Lễ do Đức Giêsu thiết lập để cứu độ loài người, rồi Ngài truyền cho Hội Thánh cử hành và mời gọi dân Ngài đến tham dự, để được Ngài thanh tẩy tâm hồn cho. Vì thế mà Đức Giêsu nói : “Thầy còn phải chịu một Phép Rửa (bằng máu trong ngày Thứ Sáu Tuần Thánh lúc Ngài dâng Lễ), và làm Thầy khắc khoải biết bao cho đến khi việc này hoàn tất” (Lc 12,50 : Tin Mừng).
Vì nhờ Lửa từ bàn tiệc Thánh Thể làm cho ta trở nên con người hữu dụng, chuẩn bị làm các việc lành (x 2Tm 3,16-17), đến nỗi họ làm gì cũng thành công (x Tv 1,2-3), đáng được lãnh phần gia nghiệp Nước Trời, vì thế thánh Phaolô nói : “Anh em được củng cố mạnh mẽ nhờ Thần Khí của Người, để con người nội tâm nơi anh em được vững vàng, được Đức Kitô ngự trong tâm hồn; anh em được bén rễ sâu và xây dựng vững chắc trên đức ái, anh em đủ sức thấu hiểu mọi kích thước dài rộng cao sâu, và nhận biết tình thương của Đức Kitô, là tình thương vượt quá sự hiểu biết. Như vậy anh em sẽ được đầy tràn tất cả sự viên mãn của Thiên Chúa. Đấng có thể dùng quyền năng đang hoạt động nơi chúng ta, mà làm gấp ngàn lần điều chúng ta dám cầu xin hay nghĩ tới” (Ep 3,16-20 : Bài đọc năm chẵn).
Ta biết thuở xưa Chúa lập Giao Ước với dân Do Thái, thì Giao Ước đó đòi hỏi người nhận phải có điều kiện. Nhưng Giao Ước vào thời Tân Ước (thời ân sủng) còn là Chúc Thư, người lập Chúc Thư thì không đòi người nhận phải có điều kiện. Người nhận Chúc Thư sẽ được thừa hưởng lời hứa đã ghi trong Chúc Thư khi người viết Chúc Thư qua đời. Chính vì vậy mà tác giả thư Do Thái nói : “Ở đâu có chúc thư, thì cần phải chứng minh rằng người làm chúc thư đã chết. Thật vậy, chúc thư chỉ có giá trị khi người làm chúc thư đã chết, bởi vì chúc thư không bao giờ có hiệu lực bao lâu người làm chúc thư còn sống” (Dt 9,16-17). Mà thực, Chúa Giêsu chỉ ban phần gia nghiệp Nước Trời khi Ngài chịu Phép Rửa bằng máu trên thập giá, để thanh tẩy tội lỗi ta (Lc 12,50 : Tin Mừng), vì Ngài đã hết lòng thực thi Lời Cha (x Ga 17,8 ; Dt 10,5-7), lúc ấy Ngài mới chuộc nơi Chúa Cha những ơn ta đã làm mất khi phạm tội, để Cha Ngài ban lại cho ta những ơn dồi dào hơn trước. Đúng như Lời Kinh Thánh nói: “Tình thương của Chúa chan hòa mặt đất” (Tv 33/32,5b : ĐC năm chẵn). Và vì thế thánh Phaolô lên tiếng dạy : “Tôi xin nói theo kiểu người phàm, hợp với tầm hiểu biết yếu kém của anh em. Trước đây, anh em đã dùng chi thể của mình mà làm những điều ô uế và sự vô luân, để trở thành vô luân, thì nay anh em cũng hãy dùng chi thể làm nô lệ sự công chính để trở nên thánh thiện.
Khi còn là nô lệ tội lỗi, anh em được tự do không phải làm điều công chính. Bấy giờ anh em thu được kết quả nào, bởi làm những việc mà ngày nay anh em phải xấu hổ? Vì rốt cuộc những việc ấy đưa đến chỗ chết. Nhưng giờ đây anh em đã được giải thoát khỏi ách tội lỗi mà trở thành nô lệ của Thiên Chúa; anh em thu được kết quả là được trở nên thánh thiện, và rốt cuộc được sống đời đời. Thật vậy, lương bổng mà tội lỗi trả cho người ta, là cái chết; còn ân huệ Thiên Chúa ban không, là sự sống đời đời trong Đức Kitô Giêsu, Chúa chúng ta.” (Rm 6,19-23 : Bài đọc năm lẻ).
Thực vậy,“phúc thay người đặt niềm tin tưởng nơi Chúa”(Tv 40/39,5a : ĐC năm lẻ).
Nhìn xuyên suốt cuộc đời của Đức Giêsu, Ngài đã dùng Lời Cha ban để chiến đấu không ngơi nghỉ với tất cả những đam mê xác thịt của loài người, nên chính Ngài đã gây chia rẽ ngay với những người cùng huyết thống với Ngài. Đan cử :
- Ngài chủ ý trốn cha mẹ ở lại Đền Thờ giảng dạy làm cho cha mẹ phải đau lòng đi tìm (x Lc 2,41-52).
- Ngài say sửa giảng Lời thì bị những người thân tộc đến bắt lôi đi và nói với mọi người : “Ông này điên khùng, mất trí rồi!” (Mc 3,21)
Thánh Phaolô cũng dùng Lời Chúa gây chia rẽ giữa nhóm Biệt phái và phe Sađốc để họ ẩu đả nhau, hòng ông được thoát mạng (x Cv 23,6-10).
Đó là lý do Đức Giêsu nói với các môn đệ : “Anh em tưởng rằng Thầy đến đã ban bình an cho trái đất sao? Thầy bảo cho anh em biết không phải thế đâu, nhưng là sự chia rẽ. Vì từ nay năm người trong một nhà sẽ chia rẽ nhau, ba chống lại hai, hai chống lại ba, cha chống lại con, con chống lại cha, mẹ chống lại con gái, con gái chống lại mẹ, mẹ chồng chống lại nàng dâu, nàng dâu chống lại mẹ chồng” (Lc 12,51-53 : Tin Mừng).
Để hiểu rõ về lý do chống đối này, nếu ta quyết liệt sống chân lý Chúa dạy, ta phải trả giá đắt, chấp nhận mất hết tình cảm, mất cả chữ hiếu, có khi mất cả mạng sống mình. Đan cử :
- Vì sống theo Lời Chúa, các Tông Đồ phải từ bỏ tất cả mọi người trong gia đình, thậm chí bố chết, mặc bố, cứ đi loan báo Tin Mừng (x Mt 10,37-39 ; Lc 9,59-60).
- Vua Saolê ghen tức với Đavid, chỉ vì Đavid đã đánh thắng mọi kẻ thù, bảo vệ dân tộc và giữ vững ngai vua. Hoàng tử Gionathan, mà vua Saolê đang muốn truyền ngôi cho, lại ra sức bảo vệ Đavid chống lại ý định hiểm độc của vua cha. Gionathan hành động như thế là ông chấp nhận mất quyền nối ngôi,cũng như mang tội bất hiếu với cha,vì Gionathan tôn trọng công lý hơn mọi giá trị trần thế (x 1Sm 20).
Rõ ràng muốn sống theo Lời Chúa phải có chọn lựa quyết liệt. Chính vì thế có nhiều người dự tòng sau khóa học Giáo Lý, không dám làm đơn xin lãnh Bí tích Thánh Tẩy, bởi lẽ cha mẹ họ đã “quy y” theo Phật và đã khẳng định với con cái : Đứa nào theo Công Giáo sẽ bị khai trừ khỏi dòng họ, vì bất hiếu ! Chỉ có đứa con “bất hiếu” nào dám mang bản án ấy, mới xin theo đạo Công Giáo mà thôi !
Vậy chỉ có “lửa tình yêu” bốc cháy trong tâm hồn, thôi thúc ta sống Đạo để biết yêu Chúa và yêu người, cũng là yêu chính mình, khi ta nói được như thánh Tông Đồ : “Tôi chấp nhận mất hết, và coi tất cả như rác rưởi, để được Đức Kitô, được kết hợp với Người” (Pl 3,8-9 : Tung Hô Tin Mừng).
THUỘC LÒNG
- Lương bổng của tội là sự chết còn ơn huệ của Thiên Chúa là sự sống đời đời (Rm 6,23).
- Thiên Chúa là cờ trận của tôi ! (Xh 17,15).
- Ai vui thú với Lề Luật Chúa, họ làm gì cũng thành công ! (Tv 1,2-3)
http://phaolomoi.net
Lm Giuse Đinh Quang Thịnh