BÀI GIẢNG
BẢN CHẤT CỦA NGƯỜI KITÔ HỮU
Chúa
nhật trước (4 năm A), để trở thành công dân Nước Trời, Đức Giêsu đòi chúng ta
phải sống tám mối Phúc (Mt 5,1-12), có thế ta mới trở thành muối và ánh sáng để
diễn tả bản chất và sứ mệnh của người Kitô hữu, mà Tin Mừng Chúa nhật này diễn
tả:
-
Muối và ánh
sáng len lỏi vào mọi môi trường để tiêu diệt và ngăn ngừa sự dữ.
-
Muối và ánh
sáng làm tăng phẩm giá vật nó tiếp xúc.
-
Muối và ánh
sáng là dấu chỉ sự hiệp nhất.
-
Muối và ánh
sáng là nhu cầu sự sống của loài người.
I. MUỐI VÀ ÁNH SÁNG LEN LỎI VÀO MỌI MÔI TRƯỜNG ĐỂ
TIÊU DIỆT VÀ NGĂN NGỪA SỰ DỮ.
- Người Kitô hữu phải như muối. Để ngăn
ngừa xác một sinh vật khỏi ươn thối, người ta dùng muối để ướp, vì sau nó khi
được tiếp xúc với muối, thì muối sẽ len lỏi vào các tế bào của nó, muối sẽ tiêu
diệt vi trùng xâm nhập.
- Người Kitô hữu phải là ánh sáng. Ánh
sáng cũng len lỏi vào mọi môi trường ta sống, nhờ đó mà nhiều vi trùng trong
bầu khí quyển bị tiêu diệt.
Thế thì sứ mệnh người Kitô hữu cũng
phải len lỏi vào môi trường xã hội, để nhờ sự hiện diện của mình mà tội lỗi,sự
dữ phải bị loại trừ. Nhất là người Kitô hữu phải biết dùng Lời Chúa làm cho môi
trường sống được thêm mặn mà, vui tươi, như lời thánh Phaolô nói : “Lời lẽ của anh em hằng phải thanh nhã, mặn
mà,ý nhị, biết đối đáp sao cho phải với mỗi một người” (Cl 4,6). Vì thế
thánh Tông Đồ nói tiếp: “Khi tôi đến với
anh em, tôi đã không dùng lời lẽ hùng hồn hoặc triết lý cao siêu mà loan báo
mầu nhiệm của Thiên Chúa.Tôi nói, tôi giảng mà chẳng có dùng lời lẽ khôn khéo
hấp dẫn, nhưng chỉ dựa vào bằng chứng xác thực của Thần Khí và quyền năng Thiên
Chúa” (1Cr 2,1.4 : Bài đọc II). Thật đáng tiếc, có nhiều bài giảng không
dựa vào “các Bài đọc mà Hội Thánh đã chọn trong mỗi Thánh Lễ, để từ các Bài đọc
đó trình bày các mầu nhiệm Đức Tin và các quy tắc cho đời sống Kitô hữu trong
suốt chu kỳ năm Phụng Vụ”, đúng với quy luật giảng mà Công Đồng Vat.II trong
Hiến Chế Phụng Vụ số 24 và 52 đã nói, mà đưa vào bài giảng những chuyện trên
báo chí, trên sách Tây, sách Tầu mới đọc, để tỏ ra mình là người trí thức, mà
những chuyện ấy chẳng làm sáng tỏ Lời Chúa trong Phụng Vụ! Có khi lại sàm sỡ
đưa vào bài giảng những câu ca dao tục ngữ cho người ta cười vui.
Thí dụ : Đêm nằm em gáy te te, chồng yêu chồng bảo
gáy cho vui nhà ; gái phải trai như thài lài phải cứt chó!
Vậy
sự hiện của người Công Giáo phải làm bùng lên nguồn ánh sáng Lời Chúa, đem lại
sự sống và hạnh phúc thật dồi dào cho mọi người, như thánh Tông Đồ lên tiếng
khuyên các tín hữu : “Giữa họ, anh em
phải chiếu rạng như đuốc sáng trên thế gian, bày tỏ Lời sự sống” (Pl 2,15).
Muốn được thế, ta phải hết lòng để tâm đọc, nghe, học hỏi và suy gẫm Lời Chúa,
vì đã xác tín rằng : “Lời Chúa là ngọn
đèn soi cho con bước,là ánh sáng chỉ đường con đi.Con đã thề và con xin cam kết
giữ quyết định công minh của Ngài.Lạy Chúa, thân con bị muôn phần khổ nhục,theo
lời Ngài,xin cho con được sống.”(Tv 119/118,105-107). Như thế “giữa chốn tối tăm bừng lên một ánh sáng,
chiếu rọi kẻ ngay lành” (Tv 112/111, 4a : Đáp ca).
II. MUỐI VÀ ÁNH SÁNG LÀM TĂNG PHẨM GIÁ VẬT NÓ TIẾP
XÚC.
Người
Kitô hữu muốn như muối và ánh sáng, họ phải có tinh thần phục vụ khiêm tốn đến quên mình, làm cho tha nhân hoặc
cảnh vật tăng thêm phẩm giá. Thực vậy,
-
Thực phẩm trong bữa ăn
nếu thiếu chất mặn (muối),thì dù đó là cao lương, cũng chẳng ai muốn dùng ;
hoặc thực phẩm ấy dộp muối lên, thì có là cao lương cũng chẳng ai dùng
được.Trong bữa tiệc người ta khen cá ngon, thịt ngon…chẳng ai khen muối.
-
Vào phòng triển lãm xem
tranh ảnh, mà phòng ấy lại không có ánh sáng, thì dù có những tác phẩm tuyệt
vời, cũng bằng không ; hoặc vào phòng mà ánh sáng làm chói mắt mọi người, thì
chắc chắn người ta phải ra khỏi phòng ấy ngay. Như thế, cảnh vật đẹp nhờ có ánh
sáng, người ta khen cảnh vật chẳng ai cám ơn ánh sáng.
Như vậy, sự hiện diện của người Kitô
hữu trong cộng đoàn nếu chỉ muốn cho mọi người phải chú ý đến mình, thì cũng
giống như thực phẩm cõng muối, hoặc như một đèn pha chiếu thẳng vào mắt! Thì
thà rằng người đó đừng có mặt. Do đó ta phải sống khiêm tốn như ông Gioan : “Người phải lớn lên,còn tôi thì nhỏ lại”
(Ga 3,30).
III. MUỐI VÀ ÁNH SÁNG LÀ DẤU CHỈ SỰ HIỆP NHẤT.
Người
ta tìm thấy sự hiệp nhất nơi muối cũng như ánh sáng. Thực vậy
- Muối là sự kết hợp giữa hai phân tử Cl và Na. Na là
kim loại kiềm và mềm, người ta điện giải muối để tách hai phân tử Cl và Na, thì
chúng đều là chất độc đối với cơ thể. Thế mà khi chúng hiệp nhất với nhau,
chúng làm cho cơ thể được thêm chất sống.
- Ánh sáng là sự tổng hợp giữa các mầu sắc không tách
biệt. Người ta đã chứng minh điều này bằng cách bôi các mầu sắc vào đĩa rồi cho
quay tít, thì đĩa ấy đồng hóa với ánh sáng.
Vậy sự hiện diện của người Kitô hữu ở bất cứ nơi đâu
phải làm cho đồng loại được hiệp nhất trong chân lý, đặc biệt là giúp nhau sống
Lời Chúa, cũng chính là Thần Khí ban sự sống (x Ga 6,63). Thánh Phaolô nói : “Anh em hãy hăm hở sự hiệp nhất của Thần Khí
(Lời Chúa) trong dây liên kết hòa thuận” (Ep 4,3), đồng thời giúp nhau được
hiệp thông Thánh Thể,“vì chưng chúng ta được
chia sẻ cùng một tấm bánh (Thánh Thể)” (1Cr 10,17). Vì thế, mỗi khi đi dự
Lễ, trước khi rước Lễ, ta được nghe Chủ tế nhắc lại chân lý : “Xin cho chúng con được hiệp nhất theo thánh
ý Chúa”, nghĩa là “xin cho chúng con
được hiệp nhất nhờ Lời Chúa và Thánh Thể, để chúng con cùng trở nên các chi thể
trong Thân Mình Đức Kitô”, để hết thảy mọi người “nên một như Chúa Cha ở trong Chúa Con” (Ga 17,21)
IV. MUỐI VÀ
ÁNH SÁNG LÀ NHU CẦU SỰ SỐNG CỦA LOÀI NGƯỜI.
Sự
sống của nhân loại không thể thiếu muối và ánh sáng, thì người Kitô hữu phải
diễn tả tầm quan trọng này. Chúa nói: “Ánh
sáng của anh em phải chiếu giãi trước mặt thiên hạ, để họ thấy những công việc
tốt đẹp anh em làm, mà tôn vinh Cha của anh em, Đấng ngự trên trời” (Mt
5,16 : Tin Mừng). Cụ thể phải đáp ứng nhu cầu của đồng loại, như Chúa đã dùng
miệng lưỡi ngôn sứ Isaia nói : “Ngươi hãy
chia cơm cho người đói,rước vào nhà những người nghèo không nơi trú ngụ;thấy ai
mình trần thì cho áo che thân, không ngoảnh mặt làm ngơ trước người anh em cốt
nhục? Bấy giờ ánh sáng ngươi sẽ bừng lên như rạng đông, vết thương
ngươi sẽ mau lành.Đức công chính ngươi sẽ mở đường phía trước,vinh quang ĐỨC
CHÚA bao bọc phía sau ngươi. Bấy giờ, ngươi kêu lên,ĐỨC CHÚA sẽ nhận lời, ngươi
cầu cứu, Người liền đáp lại: "Có Ta đây! " Nếu ngươi loại khỏi nơi ngươi ở gông cùm, cử chỉ
đe doạ và lời nói hại người, nếu ngươi nhường miếng ăn cho kẻ đói, làm thoả
lòng người bị hạ nhục, thì ánh sáng ngươi sẽ chiếu toả trong bóng tối,và tối
tăm của ngươi chẳng khác nào chính ngọ” (Is 58,7-10 : Bài đọc I).
Sống
hữu dụng cho đồng loại như thế, Chúa gọi họ là : “Đèn cháy sáng phải được đặt trên đế cao, hầu soi sáng cho mọi người
trong nhà ; họ như thành trì xây dựng trên núi không tài nào che giấu được”
(Mt 5,14-15 : Tin Mừng), làm cho lương dân cất bước tìm về nguồn sáng ban sự
sống là Chúa Giêsu (x Ga 8,12).
Chân lý này bà góa thành Sarepta đã là chứng nhân.
Thực vậy, trong lúc biết bao người lâm cảnh đói khát, vì gặp hạn hán mất mùa,
ngôn sứ Êlya không tìm đâu ra lương thực để nuôi thân. May thay, ông gặp bà góa
thành Sarepta đang lượm củi về làm bánh cho hai mẹ con ăn rồi chờ chết, vì
trong nhà chỉ còn một chén bột duy nhất. Thế mà ông Êlya lại đến xin bà bánh
ăn. Bà khước từ liền, vì bổn phận làm mẹ phải lo cho con trước khi lo cho người
ngoài. Nói cách khác, người mẹ không thể giựt chiếc bánh con đang ăn trong lúc
đói mà đưa cho người khác được. Nhưng khi bà nghe ngôn sứ Êlya nói : “Chúa sai tôi đến nói với bà : nếu bà làm
bánh cho tôi ăn, thì hũ bột và bình dầu nhà bà không bao giờ vơi”. Bà góa
ngoại giáo vừa nghe Chúa nói như thế, thì tin ngay, nên bà đã đổi ý đi làm bánh
đưa cho ngôn sứ Êlya ăn trước. Quả thật, từ bấy giờ hũ bột và bình dầu nhà bà
luôn đầy ắp, trong khi đó biết bao người phải chết đói vì thiếu lương thực ! (x
1V 17,7-16).
Như
thế, Đức Tin của bà góa Sarepta đối với Lời Chúa đã làm mẫu cho tất cả mọi người noi theo để được thoát
tay tử thần.
Vậy
ai khát vọng muốn được sống bốn điểm trên đây, để trở thành muối và ánh sáng
cho đồng loại, họ phải bắt chước bà góa Sarepta tin vào Lời Chúa mà hành động.
Đối với chúng ta, mỗi khi hiệp dâng Thánh Lễ ta được trực tiếp nghe Chúa dạy,
và ta còn được đồng hóa với Chúa Giêsu Phục Sinh, Ngài sẽ cho ta chẳng thiếu
thốn gì, vì ngoài Chúa ra “ai sẽ cho ta
thấy hạnh phúc? Lạy Chúa, xin tỏa ánh tôn nhan Ngài trên chúng con”(Tv
4,7). Đó cũng là lý do thánh Phaolô xác tín vào Chúa Giêsu để chúng ta bắt
chước ông : “Ngoài Chúa Kitô Giêsu chịu
đóng đinh (Chúa Kitô hiến tế), tôi không muốn biết điều gì khác nữa” (1Cr
2,2 : Bài đọc II). Tôi chỉ biết Chúa Kitô chịu đóng đinh, có nghĩa là tôi sống
phục vụ như Ngài đến mất mạng, để rồi tôi trở nên một Hy Lễ nhờ Ngài, với Ngài
và trong Ngài mới làm vinh hiển Chúa (x Rm 11,36).
Chúa
Kitô đã đòi buộc người Kitô hữu phải là muối mặn, phải là ánh sáng. Và nếu muối
ra lạt thì nó cũng không phải là độc dược ; đèn mà không sáng thì nó cũng chưa
làm chết ai. Loại người như thế đã bị Đức Giêsu nguyền rủa : “Đổ ra đường cho người ta dẵm đạp” (Mt 5,
13b : Tin Mừng) .Thế thì người Kitô hữu có khi không phải là muối lạt, mà còn
là độc dược, là vi trùng đối với đồng loại, thì hỏi Đức Giêsu phải dùng hình
ảnh nào để nguyền rủa loại người này ?! Ta cứ so sánh Giuđa Iscariot với anh
trộm lành : Giuđa tuy là môn đệ Đức Giêsu tuyển chọn, nhưng anh đã loại trừ
Chúa ra khỏi tâm hồn, để nhận lấy 30$, anh đã trở thành quỷ sát nhân, và rồi
cuối cùng anh tự đi đến cái chết thê thảm : vỡ bụng lòi ruột ra (x Ga 6,70-71 ;
Cv 1,18) ; trong khi đó, anh trộm lành suốt đời đằm mình trong tội lỗi, nhưng
cuối cùng anh xin được theo Đức Giêsu, và như thế anh đã sống Lời Đức Giêsu nói
: “Tôi là ánh sáng thế gian, ai theo tôi
sẽ không đi trong bóng tối, nhưng sẽ nhận được ánh sáng đem lại sự sống”
(Ga 8,12 : Tung Hô Tin Mừng), thì anh trở thành vị thánh đầu tiên được Chúa đưa
vào Thiên Đàng (x Lc 23,42-43). Như thế anh trộm lành đã trở thành muối và ánh
sáng cho mọi kẻ ác bắt chước anh sám hối và xin theo Chúa Giêsu để được cứu độ.
Nhà
cách mạng lừng danh Gandhi, tuy ông không phải là người Công Giáo, nhưng ông
rất say mê Thánh Kinh, Thánh Kinh chính là Cuốn Sách gối đầu giường của ông.
Nhờ thấm nhuần tinh thần Phúc Âm mà ông đã chủ trương bất bạo động, lấy tình
thương xóa hận thù để buộc chính quyền Anh phải trả lại độc lập cho dân tộc Ấn,
và còn giúp dân Ấn xây dựng đất nước! Nhờ trải nghiệm này mà ông đã nói với mọi
người rằng : “Đời chỉ thành công bao lâu
dám thí nghiệm sống chân lý Phúc Âm”.
Đức
Tin đã đâm rễ sâu vào ông Gandhi đến thế, nhưng sao đến cuối đời ông vẫn không
xin theo Đạo??
Lý
do là vì lần kia, ông muốn vào cầu nguyện tại một Nhà Thờ, với hy vọng sẽ gặp
một Linh mục để xin học Giáo Lý và được lãnh Bí Tích Thánh Tẩy, nhưng khi ông
vừa mới bước lên bậc thềm của ngôi Thánh Đường, thì một người da trắng từ bên
trong bước ra cản không cho ông vào và nói :
- Nhà Thờ này dành cho
người da trắng, ông muốn cầu kinh thì đi Nhà Thờ khác!
Từ đó ông quyết định
không theo đạo Công Giáo nữa !
Kẻ đã cản bước đường ông
Gandhi đến với Chúa có đáng “buộc cối đá
lớn vào cổ mà xô xuống biển” hay không?! (x Mt 18,6). Vì nó là độc dược, là
vi trùng, tệ hơn muối lạt!
THUỘC LÒNG
Ánh sáng của anh em phải chiếu giãi trước
mặt thiên hạ, để họ thấy những công việc tốt đẹp của anh em làm mà tôn vinh Cha
của anh em, Đấng ngự trên trời (Mt 5,16).
http://phaolomoi.net
LM. GIUSE ĐINH QUANG THỊNH