BÀI GIẢNG
ĐÓN NHẬN CHÂN
LÝ BẤT CỨ TỪ PHÍA NÀO TỚI
Ai biết đón nhận Chân
Lý từ Thiên Chúa qua Đức Giêsu Kitô là Thầy, để hoán cải đời sống nên chứng
nhân cho Chúa. Đó là điều Đức Giêsu
muốn.
Thực
vậy, trong Tin Mừng Mc 6,1-5 ghi nhận: Đức Giêsu về quê Nadareth giảng, dân
không muốn nghe, lại muốn xô Ngài xuống vực thẳm!(x Lc 4,28-29). Vậy mà Ngài
vẫn thương dân: chữa lành đủ thứ bệnh tật, trừ quỷ xuất khỏi nhiều người, thế
mà tác giả Tin Mừng Marcô ghi nhận : “Người đã không thể làm được phép lạ nào tại
đó; Người chỉ đặt tay trên một vài bệnh nhân và chữa lành họ!” (Mc 6, 5).
Dù Đức Giêsu có chữa lành các bệnh nhân,Ngài vẫn chưa coi đó là phép lạ.Vì dân
không đạt hai mục đích việc Đức Giêsu chữa lành bệnh cho họ:
a- Mục đích
thứ nhất : Để cho dân nhận ra Ngài là Đấng Cứu Độ mà tôn
thờ, đúng như lời ngôn sứ Is 53,4 đã báo trước : “Đấng Cứu Độ mang lấy bệnh tật
của chúng ta”. Mà ai nhận biết
Đức Giêsu là Đấng Cứu Độ (người Do Thái gọi là Đấng Mêsia), Đấng được Chúa Cha
sai vào trần gian, thì người đó được sống đời đời, như Lời Đức Giêsu nói: “Sự
sống đời đời là nhận biết Chúa Cha,Thiên Chúa duy nhất và
chân thật, và Đấng Cha sai đến, là Đức Giêsu Kitô!”(Ga 17,3). Thánh Gioan
nói : “Ai đã tin Đức Giêsu Kitô là Con
Thiên Chúa, thì họ thắng được thế gian” (1Ga 5,5).
Ai
được Đức Giêsu ban ơn cho thân xác thì phải tiến tới tôn thờ một Thiên Chúa
nhờ, với, trong Đức Giêsu mà thôi (x Rm 11,36). Cụ thể có 10 người cùi đều được
Đức Giêsu chữa lành, nhưng chỉ có một người Samari bị mang tiếng là dân ngoại,
anh không đến Đền Thờ nào để dâng lễ theo Luật, nhưng khi được khỏi cùi, anh
quay lại sụp lạy trước mặt Đức Giêsu để tạ ơn Ngài (x Lc 17,11-19). Sở dĩ anh
không đến Đền Thờ nào để dâng lễ, vì hết mọi thể thức tế tự đều vô giá trị, trừ
những ai tôn thờ Thiên Chúa trong Thần Khí và Sự Thật mới được Cha trên trời
chiếu nhận (x Ga 4,23). Thần Khí là Lời Chúa (x Ga 6,63) ; Sự Thật là Chúa
Giêsu (x Ga 14,6). Đây là hai bàn tiệc trong Hy Tế Chúa Giêsu thiết lập, rồi
truyền cho Hội Thánh cử hành cho tới ngày cánh chung, hòng thâu họp muôn dân về
cho Chúa.
b- Mục đích
thứ hai : Để họ hoán cải đời sống nên chứng nhân cho Chúa. Đặc biệt nhất là gương
hoán cải của ông Phaolô, nhờ được nghe tiếng Đức Giêsu hỏi tội ông đang lúc ông
hằm hằm thở ra mùi sát khí, đi lùng giết các tín hữu tin vào Đức Giêsu Phục
Sinh, thình lình ông bị luồng ánh sáng chiếu vào, làm ông ngã vật xuống đất !
Đức Giêsu trách : “Saolô, Saolô, tại sao
ngươi bắt bớ Ta?” Ông thưa : “Ngài là
ai?” Tiếng rằng : “Ta là Giêsu, ngươi
đang bắt bớ. Hãy chỗi dậy mà vào thành, sẽ nói cho ngươi biết phải làm gì”.
Lúc ấy mặc dù mắt ông vẫn mở, nhưng ông không trông thấy gì! Ông nhận ra tội
mình, biết sám hối bằng việc ngoan ngoãn đi học Giáo Lý nơi môn đệ của Đức
Giêsu, những người bị mang tiếng là vô học thức (x Cv 4,13). Ông được lãnh Bí tích
Thánh Tẩy, Chúa đã chữa lành mắt ông khỏi mù, và từ đó ông trở nên chứng nhân
xuất sắc cho Chúa Giêsu Phục Sinh (x 2Cr 11,5), nhất là nơi dân ngoại! (x Gl
1,16) Đó mới thực là phép lạ Chúa muốn làm cho hết mọi người đang lao mình vào
con đường lầm lạc về Đức Tin.
Ai không
đạt hai mục đích trên, thì dù cho họ tin vào Đức Giêsu, vì đã chứng kiến những
việc lạ lùng Ngài làm, thì Đức Giêsu vẫn không tín nhiệm họ ! (x Ga 2,23-24).
Ngày nay, có phong trào đặt tay xin ơn Chúa Thánh
Thần, nói tiếng lạ, chữa lành bệnh, nhiều người cho đó là đặc sủng Thiên Chúa
ban. Nhưng ta hãy coi chừng ! Đành rằng chính Đức Giêsu đã chữa lành nhiều bệnh
nhân,và Ngài còn ban quyền cho các môn đệ cũng làm được như Ngài (x Mt 10,1; Mc
16,17-18). Ta biết việc chữa lành bệnh bản chất nó là tốt, nhưng Chúa dùng nó
để làm dấu chỉ ơn cứu linh hồn người ta thoát tội, thoát Satan, thoát tử thần,
để những ai được Ngài chữa lành về thân xác, họ phải thăng tiến về đời sống Đức
Tin, cụ thể nhất họ phải ham mê nghe Lời Chúa và năng dự tiệc Thánh Thể, hầu
đời sống được hoán cải, trở nên thánh thiện hơn,đó là mục đích Chúa làm phép lạ chữa lành bệnh tật người ta.
Chúng ta lại biết, Chúa đã ấn định về số phận con
người ai ai cũng phải trải qua : “Sinh, bệnh, lão, tử”, đó là quy luật tất yếu,
xem ra Chúa cho ta có mặt trên đời là để chịu khổ ! Nhưng đó là ý định của
Thiên Chúa muốn con người từ bất toàn khi chưa được tháp vào Chúa Giêsu qua Lời
và các Bí tích, một khi đã được ở trong Chúa Giêsu, dần dần Ngài làm cho họ
được trở nên hoàn hảo, tiệm tiến theo thời gian, lộ dần con người giống Chúa
Giêsu, nên trọn lành như Cha trên trời (x Mt 5,48) : Khi sống trên dương thế,
Chúa cho khả năng hiểu và làm theo Lời Ngài dạy, lúc chết hồn được lên Thiên
đàng ; ngày cánh chung Chúa mới cho hồn xác sống lại tuyệt vời giống Chúa Giêsu
(x 1Ga 3,2). Vậy nếu ta cứ nghĩ ngày nào Chúa cho ta hết khổ thì Ngài mới
thương ta, còn khổ là Chúa ghét ta, như thế ta đã đi vào vết chân sai lầm của
ông Phêrô đã khuyên và cản Thầy chớ nộp mình cho kẻ ác giết, vì đó là dấu Chúa
không thương.Tức khắc, ông bị Thầy Giêsu xua đuổi: “Xéo đi sau Ta! Hỡi Satan, ngươi làm cớ vấp phạm cho Ta,và ý tưởng của
ngươi không phải của Thiên Chúa mà là của loài người” (Mt 16,21-23).
Người có Đức Tin sâu xa và lòng mến nồng nhiệt, biết ký
thác đời mình cho Thiên Chúa, thì phải bắt chước ông Gióp, lúc Chúa cho phép
quỷ cướp hết tài sản của ông, cho cơn gió mạnh giật sập căn nhà làm mười đứa
con ông tử vong, thế mà ông không oán trách “Chúa không thương”, ông chỉ biết
ngửa mặt lên trời thưa : “Chúa đã ban
cho, Người lại lấy đi, con xin tạ ơn Chúa” (G 1,21).
Thánh Tôma Tiến sĩ nói : “Mỗi vấn đề phải được giải quyết trong lãnh vực của nó”. Lãnh vực
bệnh tật phải giải quyết nhờ thầy thuốc,nhờ dùng thuốc. Làm cách này mà bệnh
không thuyên giảm, thì mới xin lãnh Bí tích Xức Dầu, là Bí tích có ơn đặc thù
làm cho thân xác ta khỏe mạnh lại, nếu đó là đẹp lòng Chúa. Chứ đừng khi nào
đau ốm mà chỉ cầu nguyện rồi phó thác cho Chúa, bắt Chúa phải chữa lành bệnh.
Nếu không được như ý xin là “nghỉ chơi Chúa luôn” !
Sở
dĩ người đồng hương Đức Giêsu không tin Ngài là Thiên Chúa để đón nhận Lời Ngài
mà hoán cải cuộc sống, vì họ chỉ biết Đức Giêsu là “người thợ mộc con bà Maria và là anh em của các ông Giacôbê, Giôxết,
Giuđa và Simon, chị em của ông chỉ là những người lối xóm với chúng ta” (Mc
6,3-4 : Tin Mừng).
Chúng
ta biết rằng mọi Chân Lý chỉ phát xuất từ Cha trên trời qua Thầy dạy duy nhất
là Đức Giêsu, cho nên ai tin nhận Lời Đức Giêsu là đón nhận được Chân Lý, đón
nhận chính Thiên Chúa, dù Chân Lý ấy được công bố bởi kẻ có lối sống bất xứng
(x Mt 23,1-12).
Vậy phải đón nhận Chân Lý bất cứ từ phía nào
tới : phía đó có thể là con nít, là người thất học, là kẻ thù, cụ thể ta phải
học nơi ma quỷ ba điều tốt : Nó rất mau lẹ, rất thuộc Lời Chúa (x Lc
4,1-13) ; chưa ai biết Đức Giêsu là Đấng
nào, thì nó đã nói “Ngài là Con Thiên Chúa hằng sống” (x Mc 1,24). Bởi thế, điều nào hợp với Chân Lý phát
xuất từ Thiên Chúa, mà giáo lý Hội Thánh Công Giáo đã công bố, thì ta phải đón
nhận. Ai khước từ Chân Lý, là loại trừ Thiên Chúa cứu độ nó.
Tâm lý người đời ai cũng cho chân lý phát xuất từ
những người : Có quyền cao chức cả, nhiều bằng cấp, giàu của cải. Thế thì dưới
cái nhìn của người đồng hương về Đức Giêsu, Ngài không có quyền chức nào trong
xã hội cũng như trong tôn giáo. Nếu Đức Giêsu là Hoàng đế, hay ít ra là một vị
trong hàng đầu mục Do Thái, thì chắc chắn họ sẽ hăm hở đón nhận Lời Ngài (x Ga
7,47-48), nhưng người ta chỉ thấy Ngài là con bác thợ mộc Giuse (x Lc 4,22 ; Mc
6,3 : Tin Mừng) làm trong xưởng mộc tại gia, do đó họ khinh dể Lời Ngài giảng
dạy, đúng với nhận định của Ngài : “Ngôn
sứ có bị rẻ rúng, thì cũng chỉ là ở chính quê hương mình, hay giữa đám bà con
thân thuộc, và trong gia đình mình mà thôi” (Mc 6,4 : Tin Mừng).
Tâm lý của người đời như thế, nên mỗi khi Hội Thánh
chọn một vị làm Giám mục, vẫn phải chọn người đi “du học Tây”, biết nhiều ngoại
ngữ, có bằng cấp. Trong thực tế, không phải chỉ những ai có nhiều uy tín, có
khả năng lãnh đạo để được chọn vào hàng giáo sĩ chăm sóc đoàn chiên Chúa trao
phó. Ta cứ thử nghĩ : nếu cha Gioan Maria Vianey bị nhiều người khinh dể là kẻ dốt
nát, mà được chọn làm Giám mục, thì chắc chắn Giám mục Gioan Maria Vianey sẽ làm
bốc lên sức sống Đạo của Địa phận ngài đang phục vụ hơn là vị Giám mục đương
nhiệm thời bấy giờ.
Vậy Chân Lý
tất yếu không chỉ tìm được nơi người có lý lịch đáng kính nể, mà nhất là còn
tìm nơi người biết nỗ lực làm việc, sống chết với Chân Lý, triệt để dùng ơn
Thiên Chúa ban phục vụ mọi người trong yêu thương giống như cha Gioan Maria
Vianey, được nên giống Mục Tử Giêsu,
để có thể nói với mọi người : “Chiên của
tôi thì nghe tiếng tôi, tôi biết chúng và chúng theo tôi” (Ga 10,27 : Tung
Hô Tin Mừng).
Để minh chứng đừng ai cậy dựa vào thế lực thế gian mà
phải trông cậy vào sức mạnh biết đón nhận Chân Lý và đem ra thực hành mà Hội
Thánh nhắc đến truyện vua Đavid trong Thánh Lễ hôm nay, có ý minh chứng rằng :
Ai dựa vào thế lực trần gian là một trọng tội, gây tai họa khôn lường cho những
người xung quanh. Thực vậy, vua Đavid ra lệnh kiểm tra dân số để biết lực lượng
của mình hùng mạnh thế nào! Đó là ông đã cậy dựa vào thế lực người đời, chứ
không cậy vào bàn tay Thiên Chúa phù trợ, ông đã không tin Lời Kinh Thánh nói :
“Không phải nhờ gươm,nhờ giáo mà Chúa ban
chiến thắng, bởi lẽ chiến đấu là việc của Thiên Chúa” (1Sm 17,47). Bởi đó,
tai họa đã xãy đến, nhưng Chúa vẫn thương và cho ông chọn một trong ba tai họa
:
-Bảy năm đói kém trong
vương quốc của Đavid ?
-Ba tháng phải chạy trốn
kẻ thù ?
-Ba ngày bị ôn dịch ?
Lúc đó, vua Đavid mới bừng tỉnh biết rằng Thiên Chúa
vẫn thương và phù hộ ông, bởi vì tai họa từ nhiều dần dần rút xuống. Đavid rất
khiêm tốn và khôn ngoan nên ông thưa với Chúa: “Con đã lâm cảnh rất ngặt nghèo. Thà con sa vào tay Thiên Chúa còn
hơn,vì lòng thương của Ngài bao la,nhưng ước chi con đừng sa vào tay người phàm”.
Quả thực, khi thần của Chúa giáng ôn dịch xuống Israel mới bắt đầu từ sáng và
đang lan ra giết hại bảy mươi ngàn người, Thiên Chúa đã thấy đau lòng, Ngài nói
với thần tru diệt : “Đủ rồi, bây giờ rút
tay lại” (2 Sm 24,2-17 : Bài đọc năm
chẵn).
Bởi vì “Chúa
không làm ra sự chết, Ngài không vui gì khi sinh linh bị hư mất” (Kn 1,13).
Nếu Chúa để cho tai họa ập đến chỉ nhằm huấn luyện và giáo dục con người. Tác
giả thư Do Thái nói : “Con ơi, đừng coi
nhẹ lời Chúa sửa dạy, chớ nản lòng khi Người khiển trách. Vì Chúa
thương ai thì mới sửa dạy kẻ ấy, và có nhận ai làm con thì Người mới cho roi
cho vọt. Anh em hãy kiên trì để cho Thiên Chúa sửa dạy. Người đối xử với anh em
như với những người con. Thật vậy, có đứa con nào mà người cha không sửa dạy?
Ngay lúc bị sửa dạy, thì chẳng ai lấy làm vui thú mà chỉ thấy buồn phiền. Nhưng
sau đó, những người chịu rèn luyện như thế sẽ gặt được hoa trái là bình an và
công chính. Anh em phải gắng trở nên
thánh thiện; vì không có sự thánh thiện, thì không ai sẽ được thấy Chúa. Anh em
phải coi chừng, kẻo có ai lừng khừng mà mất ân sủng của Thiên Chúa, kẻo có ai
trở nên rễ đắng nảy mầm, gây xáo trộn và do đó làm hư hỏng nhiều người” (Dt
12, 4-7.11-15 : Bài đọc năm lẻ).
Bởi vì “ân tình
Chúa thiên thu vạn đại,Chúa dành cho ai kính sợ Người” (Tv 103/102,17 : ĐC
năm lẻ).
Vậy những ai mù quáng,tự mãn, tự tôn,
dựa vào thế lực trần thế,mà không cậy vào những ơn Đức Giêsu đã ban qua dấu chỉ
những phép lạ Ngài làm tại quê hương cho người bệnh tật được lành mạnh (x Mc
6,5 : Tin Mừng), thì chắc chắn tai họa cũng sẽ ập đến, trừ khi họ biết sám hối
như vua Đavid : “Chính con đã phạm tội,
chính con có lỗi ; nhưng đàn chiên đó đã làm gì, xin tay Ngài cứ đè trên con và
nhà cha con” (2Sm 24,17 : Bài đọc năm chẵn). Có như thế họ mới cảm nghiệm
được lòng Chúa xót thương, ngăn cản tai họa đến và còn ban ơn dồi dào hơn lòng
mọi người mong ước, như lời kinh đọc : “Hạnh
phúc thay, kẻ lỗi lầm mà được tha thứ, người có tội mà được khoan dung. Hạnh
phúc thay, người Chúa không hạch tội,và lòng trí chẳng chút gian tà. Lạy Chúa,
xin tha thứ tội vạ cho con” (Tv 32/31,1-2.5 : ĐC năm chẵn).
THUỘC LÒNG
Chân Lý chỉ phát xuất từ Cha trên trời thể
hiện qua Lời giảng dạy của Thầy Giêsu mà thôi ! (x Mt 23,1-12).
http://phaolomoi.net
Lm GIUSE ĐINH
QUANG THỊNH