BÀI GIẢNG
CANH TÂN CÁCH SỐNG ĐẠO MỚI THỰC TRỞ VỀ VỚI CHÚA
Qua các Bài đọc trong Thánh Lễ kính
cuộc Trở Về của Tông Đồ Phaolô và ý nghĩa của cuộc Trở Về cho chúng ta ba điểm
giáo lý cần suy gẫm và đem ra thực hành :
-
Sức mạnh nào làm
tổn thương Hội Thánh Chúa nhiều nhất.
-
Người nào cần phải
trở về với Chúa trước nhất ?
-
Cuộc trở về nhắm
đạt yêu cầu nào ?
***
I.SỨC MẠNH NÀO LÀM TỔN THƯƠNG HỘI THÁNH CHÚA NHIỀU
NHẤT.
Qua trải nghiệm lịch sử Hội Thánh từ
thời còn sơ khai đến nay,điều làm tổn thương uy tín Hội Thánh nhiều nhất là đa
số người Công Giáo không chịu canh tân Đức Tin, bỏ việc chính mà làm việc phụ
:
1/ KHÔNG CANH
TÂN ĐỨC TIN.
Đức Giêsu kết án gắt gao những kẻ bám víu vào truyền thống của tiền nhân, mà không canh tân đời sống
theo giáo huấn của Ngài (x Mt 15 và 23). Kìa ông Saulô vì quá say mê và tự
mãn truyền thống của cha ông dựa trên Luật Môsê, ông cho đó đã là tuyệt hảo,
nên khi thấy nhiều người Do Thái đã bị các môn đệ của ông Giêsu “dụ dỗ” sửa đổi
Luật Môsê để theo Luật ông Giêsu, làm cho ông Saulô tức cuồng, nên ông lãnh
trát của các thượng tế ở Giêrusalem phóng về Đamas gặp bất cứ ai theo Giáo Lý của
các môn đệ ông Giêsu, là Saulô ra tay triệt hạ !
Vì lòng thành của ông muốn bảo vệ
đạo Chúa qua Luật Môsê, nhưng ông đã sai lầm ! Ông không hiểu rằng Luật Môsê và
giáo huấn các tiên tri chỉ trở nên hoàn hảo và thực hữu nhờ mầu nhiệm Tử Nạn và
Phục Sinh của Chúa Giêsu. Do đó, Chúa Giêsu dủ lòng thương xót ông : Ngài quật
ngã ông ngay trên đường đang xông tới Đamas. Sau khi ông được nghe tiếng Chúa
hỏi tội : “Saulô, Saulô, tại sao ngươi
bắt bớ Ta?” Ông thưa lại : “Ngài là
ai?” Thì Ngài nói rõ: “Ta là Giêsu
ngươi đang bắt bớ”. Như thế ông bách hại những người Công Giáo chính là
bách hại Chúa Giêsu. Ông khiêm tốn thưa : “Lạy
Ngài tôi phải làm gì?” Chúa bảo : “Hãy
đi học Giáo Lý nơi môn đệ của Ta”. Nhờ đó con mắt Đức Tin của ông mới được mở ra, và ông trở
nên môn đệ rất xuất sắc của Chúa Giêsu, không thua kém các Tông Đồ thượng đẳng
(x Cv 22,3-16 : Bài đọc ; 2Cr 11,5).
Nhìn vào đời sống của Hội Thánh trên
toàn thế giới hôm nay, nhiều người Công Giáo dần dần bỏ Đạo, hoặc sang tôn giáo
khác, hoặc không thiết tha gì đến dự Phụng Vụ của Hội Thánh, kể cả lễ Chúa nhật
và lễ Trọng, họ cũng tỏ ra thờ ơ lãnh đạm ! Đan cử đài Chân Lý Á Châu loan tin
ngày 05/01/2010 về tình trạng Giáo Hội Công Giáo tại Hà Lan :
“Cách đây nửa thế kỷ, Hà Lan là một
nước Công Giáo vững mạnh, có sức truyền giáo. Nhưng ngày nay (2010), 41a% người Hà Lan tuyên bố vô tôn giáo ; 58% không còn biết lễ Giáng Sinh là gì! Như thế 41% + 58% = 99% mất Đức Tin !! Đa số nhà thờ Công Giáo ở
Hà Lan biến thành ký túc xá, tiệm buôn bán, thành nhà thờ Hồi Giáo ! Tâm hồn
giới trẻ trống rỗng về Đức Tin, nhưng không biết hỏi ai, vì thiếu người giảng
dạy ! Một số Linh mục dòng Đaminh và Linh mục dòng Tên chủ trương dâng Lễ không
cần Linh mục, chỉ cần giáo dân quy tụ cùng dâng Lễ là được. Giáo Hội Công Giáo
Hà Lan đang có nguy cơ biến mất !”
Sự cố này đang diễn ra không phải
chỉ ở Hà Lan, mà còn hầu hết ở các nước có nền văn hóa Kitô giáo trước đây rất
mạnh, nay đang tiến dần nguy cơ biến mất, cũng chỉ vì đa số các chủ chăn đang
đi vào vết chân “truyền thống” của các tiền nhân. Ngày nay, chúng ta cứ nhìn
vào sinh hoạt của các cộng đoàn dân Chúa, phần lớn giáo dân sống Đạo bắt chước
người khác, mà không cần biết đúng hay sai với Giáo Lý Hội Thánh đã dạy. Đan cử
một số vấn đề
Ø
Có cần phải xây đài Đức Mẹ ở cuối Nhà Thờ hay
không? Trong Nhà Thờ nào cũng có đặt tượng Đức Mẹ, thế thì cuối Lễ tại sao
không cùng nhau cầu nguyện với Đức Mẹ trong Nhà Thờ? Không lẽ Đức Mẹ ở Đài thì
linh hơn hay sao?
Ø
Các bảng Tạ Ơn luôn khắc câu “Con Tạ
Ơn Đức Mẹ” hoặc “Con Tạ Ơn thánh
Giuse”. Như thế có đúng Đức Tin hay không? Vì “ngoài Chúa ra không ai có thể lãnh nhận ơn gì” (x Ga 3,27),và Đức
Tin Công Giáo luôn luôn xác tín: “Chính
nhờ Đức Kitô, cùng với Đức Kitô và trong Đức Kitô, mọi chúc tụng và vinh quang
mới quy về Chúa” (Rm 11,36). Thế thì đáng lẽ mọi bảng Tạ Ơn phải ghi “Con
Tạ Ơn Chúa qua lời chuyển cầu của Đức Mẹ” hoặc “Con Tạ Ơn Chúa, vì Ngài đã nhận
lời cầu của thánh Martin” v.v… Nếu ta cứ bắt chước nhau để bảng Tạ Ơn
như người khác quen làm, là cách ta gán cho các đấng Thánh cướp quyền và danh
dự của Thiên Chúa !
Ø
Lấy tên địa danh nơi Đức Mẹ hiện ra để đặt tên
cho Đức Mẹ, như Mẹ Lavang, Mẹ Tapao…liệu có lý hay không? Vì như thế là người
ta đã gạt bỏ tên Maria (tiếng Do
Thái là Miryam, tiếng gốc cổ Ai Cập là Mri, có nghĩa là được yêu mến. Thời Tân Ước, tự nguyên bình dân dựa trên tiếng Aram (Mara), có
nghĩa là chủ, chúa, bà. Nên Maria có nghĩa là bà chủ).
Tên
Mẹ Thiên Chúa hay như thế, và Đức Giêsu cũng từng gọi Mẹ mình là Maria. Tại sao
nay người ta lại bỏ đi? Đức Maria không phải là nhân vật thần thoại, mà là con
người lịch sử, được Thiên Chúa chọn trong dân tộc Do Thái. Thì ta cứ phải tạc
tượng Mẹ Maria theo mẫu người phụ nữ Do Thái mới hợp lý. Bởi vì Thiên Chúa
không chọn một phụ nữ ở dân tộc khác, không chọn phụ nữ Việt Nam để làm
tượng Đức Mẹ đội khăn đống áo dài! Nếu muốn nhớ ơn Đức Mẹ hiện ra ở Lộ Đức, ở
Lavang, ở Fatima, thì ta gọi là Mẹ Maria Lộ
Đức, Mẹ Maria La Vang, Mẹ Maria Fatima… Nếu cứ bắt chước nhau lấy địa danh nơi
Mẹ hiện ra để đặt cho Mẹ, thì chúng ta hãy cầu xin Mẹ chớ khi nào Mẹ vô ý hiện
ra ở địa danh Lạc Quần, Lạc Đạo, thì người làm tượng không thể diễn tả về Mẹ
Lạc Quần, Mẹ Lạc Đạo được!? Và dân ngoại không thể nhận ra người Công Giáo chỉ
có một người Mẹ duy nhất là Đức Maria, Mẹ Thiên Chúa, Mẹ Hội Thánh.
Và
còn rừng vấn đề khác tương tự như trên. Hỏi ai có trách nhiệm phải làm cho giáo
dân diễn tả đúng Đức Tin của mình?
Các chủ chăn lẽ ra phải bắt chước
Chúa Giêsu ưu tiên chu toàn hai sứ mệnh Tư Tế và Ngôn Sứ để quy tụ muôn dân về
cho Chúa. Như giáo huấn của Công Đồng Vat.II trong Sắc Lệnh Đào Tạo Linh Mục số
4 dạy : “Phải huấn luyện chủng sinh trở thành những mục tử chăn dắt các linh hồn
theo gương Chúa Giêsu là Thầy Linh Mục và là Chủ Chăn. Vậy để chu toàn chức vụ
rao giảng Lời Chúa, họ phải được chuẩn bị để mỗi ngày hiểu Lời mạc khải của
Chúa hơn, để nhờ suy gẫm, thấm nhuần và diễn tả trong lời nói cùng cách sống.
Họ phải được chuẩn bị chu toàn chức vụ Phụng Tự và thánh hóa : để thi hành công
việc cứu rỗi qua Hy Tế Thánh Thể và các Bí tích bằng lời cầu nguyện, và nghiêm
chỉnh cử hành các Nghi Lễ Phụng Vụ”. Bởi thế Sắc Lệnh Chức Vụ Và Đời
Sống Linh Mục số 4, đã nhắc nhở các chủ chăn : “Dân Chúa được quy tụ trước nhất
là nhờ Lời Thiên Chúa hằng sống, Lời này phải đặc biệt tìm thấy trên môi miệng
các Linh mục, bởi vì các Linh mục mắc nợ dân về Lời Chúa”.
Để giúp cho các mục tử chu toàn sứ
mệnh Tư Tế và Ngôn Sứ, giáo huấn của Công Đồng Vat.II trong Hiến Chế Phụng Vụ
đã dạy :
- “Khi cử hành Phụng Vụ, Kinh Thánh giữ vai trò tối quan trọng. Thực vậy, Hội Thánh đã
trích từ Thánh Kinh những Bài đọc để dẫn
giải trong bài giảng” (số 24).
- “ Bài giảng phải căn cứ vào
Thánh Kinh để trình bày các mầu nhiệm Đức Tin và các qui tắc cho đời sống
Kitô hữu trong suốt chu kỳ năm phụng vụ. Bài
giảng rất đáng được coi như một phần của chính Phụng Vụ” (số 52).HeHiw5HieHI
- “Bài
giảng thuộc phần hoạt động của Phụng Vụ, nên phải có thời giờ thích hợp để giảng giải…Phải hết sức trung thành
chu toàn thừa tác vụ giảng giải đúng với
Nghi Lễ. Tiên vàn bài giảng phải múc lấy từ nguồn Kinh Thánh và Phụng Vụ ,
vì như thế là rao truyền việc kỳ diệu của Thiên Chúa trong lịch sử cứu độ”
(số 35).
Nếu giáo dân đi dự Lễ ở bất cứ nhà thờ Công Giáo nào, cũng
được nghe lời giáo huấn do các chủ chăn khai triển từ các Bài đọc trong Thánh Lễ ấy, làm đúng với Quy Luật
Phụng Vụ, như giáo huấn của Công Đồng Vatican II đã dạy như trên, thì chắc chắn
tháp Babel mới càng ngày càng được xây dựng rộng và cao chạm tới Trời (dân được
cứu độ) khởi đi từ ngày lễ Ngũ Tuần. Xưa kia con cháu Noe đã phải tản đi khắp
nơi vì không thống nhất một ngôn ngữ, nên việc xây tháp Babel bất thành (x St 11,1-9).
Vậy
chỉ những ai nhờ Chúa Thánh Thần thúc
đẩy cùng đến nghe và nói một ngôn ngữ của Hội Thánh do ông Phêrô (Giáo hoàng) loan
báo (x Cv 2). Thế nên “anh em hãy đi khắp tứ phương thiên hạ mà
loan báo Tin Mừng” (Mc 16,15 : Đáp ca). Vì Chúa nói : “Thầy đã chọn anh em từ giữa thế gian, để anh em ra đi,sinh được hoa
trái, và hoa trái của anh em tồn tại”
(Ga 15,16 : Tung Hô Tin Mừng).
2/ BỎ VIỆC CHÍNH MÀ LÀM VIỆC PHỤ.
Cụ thể vào thời Giáo Hội sơ khai,
các Tông Đồ đã bỏ bê cầu nguyện và giảng
Lời mà bận tâm lo việc phục vụ bàn ăn, vì lúc ấy các ông rất có uy tín với
giáo dân, nên nhiều người bán hết nhà cửa và ruộng vườn đem đặt dưới chân các
Tông Đồ để chia sẻ đồng đều cho mọi người (x Cv 4,32-35). Quả thật, bản chất
việc này là tốt, vì đã diễn tả thời cánh chung trong Nước Thiên Chúa chẳng ai
thiếu thốn gì. Vì thế, các Tông Đồ mải mê nó mà xao nhãng cầu nguyện và giảng Lời, tức là bỏ việc chính mà làm
việc phụ, hậu quả gây sóng gió trong cộng đoàn, các tín hữu bất hòa với nhau! Đó
là lý do thánh Phaolô phải nhắc nhở cho ông Timôthêu, môn đệ : “Hình thức của đạo thánh thì họ còn giữ,
nhưng cái chính yếu thì đã chối bỏ. Anh hãy xa lánh cả những người ấy” (2Tm
3,5). Thánh Augustin mỉa mai: “Bạn chạy
khỏe lắm đó, nhưng trật đường mất rồi”. Nhưng nhờ ơn Chúa soi sáng cho các
Tông Đồ nhận biết làm thế là sai lầm, nên các ông đã chọn ra bảy người có uy
tín trong dân gọi là Phó tế, để trao việc quản lý tài sản của Giáo Hội và chia
sẻ của cải cho mọi người không ai dư của, không ai túng thiếu ; còn các
Tông Đồ thì trở về với nhiệm vụ chính là cầu nguyện và giảng Lời, từ bấy
giờ Hội Thánh được bình an và phát triển (x Cv 6,1-7).
Nhìn vào đời sống Hội Thánh từ hơn
20 thế kỷ nay, dù biết rằng các vị chủ chăn đã được trao sứ mệnh : “1-Tư Tế, 2-Ngôn sứ, 3-Vương đế”.
Nhưng
trong thực tế, hầu hết các ngài đã làm đảo lộn: “3-Vương đế, 1-Tư tế, 2-Ngôn
sứ”, nghĩa là hàng giáo sĩ đã biến sứ mệnh thành cơ cấu để tỏ uy quyền, hầu
những kẻ dưới luôn luôn phải lệ thuộc vào “cụ”. Vì “cụ” muốn bảo gì cũng phải
nghe, truyền điều gì cũng phải làm, phải trái hậu xét ! Bởi thế, các “cụ” không
còn đủ giờ chu toàn sứ mệnh Tư Tế (cầu nguyện) và Ngôn Sứ (giảng Lời). Sống như
thế chẳng giống Chúa Giêsu chút nào. Đức Giêsu vốn dĩ là Chúa, là Vua, nhưng
Ngài không thể hiện quyền Vua của Ngài để khuất phục ai, như Ngài khước từ can
thiệp việc chia gia tài cho một người đến xin Ngài đứng ra phân xử trong gia
đình họ (x Lc 12,13-14), hoặc không để nhiều giờ chữa bệnh, trừ quỷ, lấn lướt
việc cầu nguyện và giảng Lời. Mà có lúc Ngài phải trốn nhu cầu của dân để có
giờ chu toàn sứ mệnh Tư Tế (cầu nguyện) và Ngôn Sứ (giảng Lời) [x Mc 1,32-39]. Như
thế Chúa Giêsu chu toàn hai sứ mệnh này, thì Ngài đã chu toàn sứ mệnh Vương Đế.
Đức cố Giáo hoàng Gioan Phaolo II đã cảnh báo : “Mối nguy thường xuyên nơi các chủ
chăn trong Hội Thánh là năng nổ, đắm chìm vào những công việc của Chúa, nhưng
lại quên mất Chúa là Chủ của công việc”. Câu nói này Đức Giáo hoàng
muốn nhấn mạnh : các mục tử say sưa, nỗ lực để điều hành mọi sinh hoạt của cộng
đoàn, bề ngoài xem ra sinh động và thành công, nhưng đời sống cầu nguyện và sứ
mệnh giảng dạy thì thiếu sót. Chính việc cầu nguyện và giảng Lời mới là Chúa
của công việc.
Bởi thế, giáo huấn của Công Đồng
Vat.II trong Hiến Chế Phụng Vụ số 86 dạy : “Các
Linh mục miệt mài với công việc mục vụ thánh, càng cần phải sốt sắng chu toàn
các giờ Kinh Phụng Vụ ngợi khen, nếu càng ý thức sống động hơn rằng mình phải
tuân giữ lời căn dặn của thánh Phao-lô : “Hãy cầu nguyện không ngừng” (1Tx
5,17) ; vì chưng chỉ một mình Chúa mới có thể ban hiệu quả, và sự tiến triển cho công
việc họ làm, Chúa đã phán : “Không có Thầy, các con không thể làm được việc gì” (Ga 15,5). Vì thế, khi thiết lập hàng Phó tế, các Tông Đồ đã nói : “Về phần chúng
tôi, chúng tôi sẽ chuyên tâm đến việc cầu nguyện và giảng dạy” (Cv 6,4)”.
II.
NGƯỜI NÀO CẦN PHẢI TRỞ VỀ VỚI CHÚA TRƯỚC NHẤT ?
Cuộc
trở về của thánh Phaolô, không phải là nhắm trở về trong lãnh vực luân lý, đạo
đức – vì ông Phaolô là một Biệt phái rất gương mẫu trong việc giữ Luật Môsê,
trổi vượt xa nhiều đồng chủng, đồng trang lứa với ông (x Gl 1,14) – Mà cuộc trở về của ông Phaolô nhấn mạnh đến
việc canh tân, đổi mới Đức Tin, để lôi kéo, tập họp nhiều người về cho Chúa !
Chân lý này đã
được Đức Giêsu nói trong “Dụ ngôn con chiên bị lạc” (x Lc
15,4-7). Nếu ta cắt nghĩa dụ ngôn này theo nghĩa đen, thì thật là vô lý ! Vì
người nuôi chiên, ai cũng mong vắt được nhiều sữa, lấy được nhiều thịt, đạt
kinh tế cao. Thế thì 99 con chiên không lạc làm cho chủ có nhiều lợi tức hơn,
vậy tại sao chủ không vui mừng khi 99 chiên không lạc, mà lại rất vui khi một
con trở về, liệu nó có đem lại nhiều lợi tức cho chủ hơn 99 con kia không ?!
Bởi
đó, muốn hiểu đúng ý nghĩa và giá trị của dụ ngôn Chiên Lạc, bắt buộc ta phải
hiểu :
-
99 con chiên không lạc là các Tông Đồ được Đức
Giêsu chọn !
-
Một con chiên lạc trở về ràn chiên của chủ, đó
chính là ông Phaolô.
Thực
vậy, khi ông Phaolô trở về đoàn chiên Hội Thánh, ông đã trở thành một Tông Đồ
xuất sắc không thua kém “các Tông Đồ thượng đẳng”, hơn cả về lượng, hơn cả về
phẩm chất (x 2Cr 11,5).
Vì thế, thánh Tông Đồ đã khoe với
ông Timôthê môn đệ ông rằng: “Đức
Giêsu bước vào trần gian để cứu những
người tội lỗi, trong số đó tôi là người thứ nhất !” (1Tm 1,15) Người thứ
nhất ở đây không phải là người đầu tiên được Chúa cứu, mà là mẫu trở về với Đức
Giêsu cho tất cả mọi người. Hiểu như
thế, chúng ta mới biết giá trị câu nói của Đức Giêsu : “Khi
người tội lỗi ăn năn sám hối trở về, thì cả tầng trời rúng lên vì niềm vui mừng!”
(Lc 15,7a). Thế thì :
ü
Trong gia
đình, người bố là chiên đầu đàn, như sách Huấn ca 30,4 nói : “Người bố dù có tắt thở ông cũng chưa chết,
vì ông đã để lại con cái giống hệt ông!” Người bố ở đây không chỉ quy trách
nhiệm riêng cho người chồng, mà là hết những ai có trách nhiệm giáo dục trong
gia đình : ông bà, mẹ, anh chị, người bảo hộ, đều phải canh tân đời sống Đức
Tin như thánh Phaolô.
ü
Trong một
giáo xứ, cha Sở là chiên đầu đàn. Thánh Gioan Maria Vianey nói : “Linh mục thánh thiện, thì giáo dân đạo đức ;
Linh mục đạo đức, thì giáo dân tầm thường ; Linh mục tầm thường, thì giáo dân
ra quỷ!” Vậy nếu Linh mục mà ra quỷ, thì giáo dân còn độc ác hơn quỷ vương
Beelzebul !!
ü
Trong địa
phận, Giám mục là chiên đầu đàn. Thánh Augustin nói : “Làm Giám mục cho anh em, tôi rất lo sợ, làm tín hữu với anh em, tôi rất
an tâm. Vì Giám mục chỉ là một chức vụ, tín hữu mới là một ân phúc. Giám mục là
một danh hiệu nguy hiểm, tín hữu là một danh hiệu đem ơn cứu độ!” (x HCHT
số 32) Nói kiểu của cha Gioan Maria Vianey thì : “Nếu Giám mục tầm thường thì hàng Linh mục trong địa phận ra quỷ !”
Chính vì vậy mà bất cứ Thánh Lễ nào, sau lời Truyền Phép,lời
cầu nguyện đầu tiên là cho Giám mục thủ lãnh (Giáo hoàng),và Giám mục địa phận, vì các vị này
mới là người quyết định làm cho Hội Thánh được bốc lên. Bởi vì mỗi giáo phận là
một Hội Thánh vẹn toàn, vì Giám mục là hiện thân Tông Đồ của Đức Giêsu, là thầy
dạy Đức Tin. Nên việc canh tân sống đạo
của mọi thành phần trong Giáo phận hoàn toàn lệ thuộc vào Giám mục địa
phận. Do đó nếu có giáo dân hay Linh mục
nào giống thánh Phaolô, thì cũng chỉ là “đèn chói mắt”, làm nhức đầu người khác
! Nhưng nếu Giám mục là một Phaolô mới, thì sẽ làm bốc lên sức sống đạo của dân
Chúa trong địa phận, trở thành bó đuốc sáng, thành đèn hải đăng soi dẫn muôn dân
tìm về ràn chiên của Đức Giêsu! Thực là buồn cho Hội Thánh Chúa, suốt hơn 20
thế kỷ nay, mới chỉ có một Giám mục Phaolô mà thôi !
III.
CUỘC TRỞ VỀ NHẮM ĐẠT YÊU CẦU NÀO ?
Cuộc
trở về với Chúa theo gương thánh Phaolô nhằm hai hiệu quả này :
1/
TA THỰC SỰ ĐƯỢC TRỞ NÊN GIỐNG CHÚA TRONG CHÚA GIÊSU.
Chúa Giêsu nói với các môn đệ : “Anh em hãy đi khắp tứ phương thiên hạ loan
báo Tin Mừng cho mọi loài thụ tạo” (Mc 16,15 : Tin Mừng).
Ta lưu ý : Chúa Giêsu không nói loan
báo Tin Mừng cho mọi người, mà Ngài nói cho mọi loài thụ tạo.
Ta
biết tác giả Sách Sáng thế ghi nhận : “Thiên
Chúa tạo dựng loài người giống hình ảnh của Ngài” (St 1,26a). Thực ra, đó
mới chỉ là ước định của Thiên Chúa muốn con người được giống Ngài, chứ : “Con
người đầu tiên là Ađam được dựng nên thành một sinh vật, còn Ađam cuối cùng là
thần khí ban sự sống” (1Cr 15,45). Cũng vì vậy mà Lời Sách Thánh đã nói
: “Về
con cái loài người, tôi tự nhủ : Thiên Chúa muốn thử thách họ và cho họ thấy
chính họ chỉ là thú vật mà thôi. Quả thế, con người và thú vật đều
cùng chung một số phận : bên này chết, bên kia cũng chết ; đôi bên đều có sinh
khí như nhau. Con người chẳng có gì hơn thú vật, bởi vì mọi sự chỉ là phù vân”
(Gv 3,18-19). Nhưng những ai được tạo dựng lại nhờ, với, trong Chúa Giê-su, thì
họ cùng trở nên một xương thịt với Ngài
(x Dt 2,11), được thông dự cùng một sự
sống với Ba Ngôi Thiên Chúa (x Ga 6,57), đến nỗi được đồng hóa với Chúa Giêsu (x Gl 2,20).
Lời Nguyện Nhập Lễ Thứ Hai, sau Chúa
nhật IV Phục Sinh, Hội Thánh cầu nguyện rằng : “Lạy Chúa, là Đấng tạo thành vũ trụ, Chúa đã muốn cho con người mỗi ngày
một trở nên hoàn hảo hơn, và hoàn thành công trình tạo dựng của Chúa” ; và
Lời Nguyện Nhập Lễ Thứ Năm sau Chúa nhật thứ IV Phục Sinh, Hội Thánh lại cầu
nguyện : “Lạy Chúa, Chúa đã tỏ lòng nhân hậu mà cứu chuộc con
người, và nâng lên địa vị cao sang hơn tình trạng nguyên thủy, xin nhớ lại công
trình kỳ diệu này, mà giúp chúng con trung thành luôn mãi với ơn tái sinh Chúa
đã ban.”
2/ SỰ DỮ KHÔNG LÀM HẠI AI VÌ TA ĐƯỢC
SỐNG HÒA HỢP VỚI CẢ SỰ DỮ.
Chúa Giêsu hứa với những ai đã lãnh
nhận Bí tích Thánh Tẩy giống các Tông Đồ : “Họ
sẽ cầm được rắn, và dù có uống nhằm thuốc độc, thì cũng chẳng sao. Và nếu họ đặt
tay trên những người bệnh, thì những người này sẽ được mạnh khỏe” (Mc 16,18
: Tin Mừng).
Lời hứa trên mang hai ý nghĩa :
a-
Ai thuộc về Chúa, sống hay chết đều ở
trong tay Chúa: Cụ thể ông Phaolô trong lúc vượt biển đi truyền giáo, con
tầu của ông bị đắm, ông đã bơi vào bờ, vì quá lạnh ông thấy những thổ dân đang
đốt lửa, ông muốn đến sưởi ấm, nên ông đã ôm một mớ củi khô quăng vào đống lửa,
ngờ đâu một con rắn độc quấn lấy tay ông. Thổ dân nắm chắn ông sẽ chết, bởi vì
loại rắn này cắn ai thì vô phương cứu chữa, thế nhưng ông Phaolô bình tĩnh giũ
con rắn vào lửa, ông vẫn sống bình an! (x Cv 28,3-6). Điều ấy minh chứng rằng :
bất cứ sự dữ nào : dù rắn hay thuốc độc, không làm hại được người đã thuộc về
Chúa, một khi Chúa chưa cho phép !
b- Sống hòa
hợp giữa lành – dữ trong mầu nhiệm Hội Thánh : Ngôn sứ Isaia nói : “Bấy giờ sói sẽ ở với chiên con, beo nằm bên
dê nhỏ. Bò tơ và sư tử non được nuôi chung với nhau,một cậu bé sẽ chăn dắt
chúng. Bò cái kết thân cùng gấu cái, con của chúng nằm chung một chỗ,sư tử cũng
ăn rơm như bò. Bé thơ còn đang bú giỡn chơi bên hang rắn lục,trẻ thơ vừa cai
sữa thọc tay vào ổ rắn hổ mang” (Is 11,6-8).
Thực ra chân lý trên, người tin theo
Chúa chỉ thực sự thấy ứng nghiệm khi đã hoàn tất cuộc đời này trong Thánh Ý
Thiên Chúa, như Tông Đồ Phaolô và Phó tế Stêphanô : Ở đời này, “sói Phaolô” đã
ăn thịt “chiên Stêphanô” (x Cv 7, 54t và Cv 8,1-3). Nhưng khi cả hai đã được về
Trời, lúc đó họ mới hiểu giá trị Lời Kinh Thánh
“sói sống chung với chiên”,
hoặc “cầm rắn, uống nhằm thuốc độc cũng
chẳng sao” !
Vậy mỗi Kitô hữu phải chu toàn đúng
bổn phận của mình ưu tiên theo thứ tự : Cầu nguyện (Tư Tế), giảng Lời (Ngôn Sứ),
rồi phục vụ (Vương Đế) giống Chúa Giê-su (x Mc 1,32-39), và biết canh tân đời
sống Đức Tin của mình giống thánh Phaolô, đó mới thực sự là ta đã sống giáo lý
của Lễ Kính Thánh Phaolô Trở Lại, để có thể hô lên : “Muôn dân hỡi, nào ca ngợi Chúa, ngàn dân ơi hãy chúc tụng Người. Vì
tình Chúa thương ta thật là mãnh liệt,
lòng thành tín của Người bền vững muôn năm.” (Tv 117/116,2).
THUỘC LÒNG
Đức
Giêsu đến trần gian để cứu những người tội lỗi, trong số đó tôi là người thứ
nhất! (1Tm 1,15).
http://phaolomoi.net
Lm
Giuse Đinh Quang Thịnh