BÀI GIẢNG
Normal
0
false
false
false
MicrosoftInternetExplorer4
CẦU
NGUYỆN, BẬT MẦM SỐNG!
Qua
các Bài đọc trong Thánh Lễ ngày 19 tháng 12, cho chúng ta những xác tín sau:
-
Cầu nguyện,
bật lên mầm sống.
-
Chỉ cầu nguyện
nhờ,với,trong Chúa Giêsu,mới được phúc lành của Thiên Chúa.
-
Kẻ nào không
tin Chúa là kẻ câm.
-
Phải say sưa
Lời Chúa, chứ đừng say rượu, mới trở nên chứng nhân của Chúa.
&&&
1/ CẦU
NGUYỆN, BẬT LÊN MẦM SỐNG.
Chúng
ta biết, tác giả Luca viết Tin Mừng trong bối cảnh cầu nguyện,nói cách khác, ơn
cứu độ Thiên Chúa thực hiện trong Phụng Vụ Chúa Giêsu thiết lập. Bởi thế mở đầu
và kết thúc Tin Mừng của Luca, ông cho chúng ta thấy bóng dáng cầu nguyện của
tư tế Cựu Ước và tư tế Tân Ước :
- Mở đầu Tin Mừng,vị tư tế thời Cựu Ước,
ông Dacarya vào Đền Thờ cầu nguyện, vợ chồng Dacarya đã cao niên mà chưa có
con, sau buổi cầu nguyện đó ông trở về, thì ông bà có con : mầm sống cứu độ bật
lên (x Lc 1,5t).
- Kết thúc Tin Mừng, các tư tế thời Tân
Ước là các Tông Đồ, sau khi tiễn Thầy Giêsu về Trời, các ông không đi khắp thế
gian rao giảng Tin Mừng như ông Mátthêu viết (28,19-20), nhưng hằng ngày ở
trong Đền Thờ chúc tụng Thiên Chúa : Ơn cứu độ được bung ra cho muôn dân (x Lc
24,52-53).
Vì
việc cầu nguyện cần thiết và đem lại hiệu quả hơn lòng mọi người mong ước, nên
Đức Giêsu dạy chúng ta phải kiên tâm luôn luôn cầu nguyện (x Lc 18,1), đừng thua
kém bà góa đã kiên nhẫn cầu xin với vị thẩm phán bất lương bênh vực bà, vì ông
thẩm phán này thua xa Thiên Chúa là Đấng giàu lòng thương xót (x Ep 2,4-5),
Người mau kíp ban ơn cho ta (x Lc 18,1-8 ; Ep 3,20).
Đức
Giêsu là Thiên Chúa toàn năng mà Ngài còn đặt việc cầu nguyện đứng hàng đầu mọi
sinh hoạt. Phúc Âm Lc 4,31-44 ghi lại thời khóa biểu sinh hoạt mỗi ngày của Đức
Giêsu :
Ngài
dứt giảng Lời ở hội đường vào khoảng 9 giờ sáng (theo Luật Do Thái giáo). Sau đó
Ngài về nhà mẹ vợ của ông Phêrô, rất nhiều người mắc đủ mọi chứng bệnh, dù bị
quỷ ám, đều được Ngài chữa lành, mãi đến chiều tà vẫn còn nhiều bệnh nhân được
đưa đến cho Đức Giêsu xin Ngài cứu giúp! Đức Giêsu rất cần thiết cho mọi nhu
cầu của người ta đến thế, vậy mà Ngài lại bỏ họ trốn mất ! Ông Phêrô cùng các
bạn đi lùng kiếm Đức Giêsu. Mãi đến sáng, họ gặp thấy Ngài đang cầu nguyện ở
nơi vắng vẻ. Ông Phêrô nói : “Mọi người
đi tìm Thầy !” Nói thế, ông hàm ý trách khéo: Thầy tài năng như vậy, tại
sao Thầy không ở lại cứu giúp người ta cho bớt khổ ?! Thế mà Đức Giêsu lại
không bảo : Ai cần tôi điều chi, cứ lại đây, tôi giúp hết…! Mà Ngài lại giục
ông Phêrô : “Chúng ta hãy đi nơi khác,
đến các làng xã lân cận để Ta rao giảng ở đó nữa. Bởi chính vì thế mà Ta đã ra
đi !” Như vậy, ngày làm việc của Đức Giêsu
ưu tiên theo thứ tự :
CẦU NGUYỆN –
GIẢNG LỜI – ĐI PHỤC VỤ NHU CẦU THÂN XÁC MỌI NGƯỜI
Còn
người đời, kể cả các Kitô hữu chỉ lo tìm “tiền – nhà- cơm- áo- thuốc men”,
chẳng quan tâm đến việc cầu nguyện, chẳng đặt đứng hàng đầu hay quan trọng
nhất, và chẳng khi nào lo việc loan báo Lời Chúa ngay cho những người sống bên
cạnh ! “Cùng đích của họ là diệt vong, họ
lấy cái bụng là Chúa, vinh quang đặt nơi điều đáng xấu hổ, họ chỉ nghĩ đến
những điều ở dưới đất!” (Pl 3,19). Sống như thế làm sao họ muốn đến cùng
Đức Giêsu để “Ngài nâng đỡ bổ sức cho”
(x Mt 11,28). Bởi đó, Đức Giêsu trách : “Ta
biết các ngươi : Lòng mến Thiên Chúa các ngươi không có nơi mình các ngươi. Ta
đã đến nhân danh Cha Ta, nhưng các ngươi không chịu lấy Ta, thảng hoặc có ai
khác lấy danh mình mà đến, thì các ngươi chịu lấy nó. Mà làm sao các ngươi có
thể tin được, khi các ngươi cầu vinh với nhau, còn vinh quang Thiên Chúa, là
Thiên Chúa duy nhất, các ngươi lại không
màng” (Ga 5,42-44).
Đức
Giêsu phản đối những người nói : Tôi
không có đủ giờ cầu nguyện. Ngài kể dụ ngôn : “Người kia làm tiệc lớn đãi
khách, khi tiệc đã dọn xong, ông sai đầy tớ đi mời thực khách đã được mời trước
đến dự tiệc. Nhưng người thứ nhất quyết liệt chối từ :
-
“Tôi mới mua một thửa đất, tôi phải đi xem đất, không có giờ đi dự tiệc.Người
đầy tớ lại đi mời người thứ hai, người này cũng chối :
-
“Tôi mới mua được 5 cặp bò, tôi phải đi thử xem nó có khỏe không, không có giờ
đi dự tiệc nào hết !”
Người
đầy tớ lại đi mời người thứ ba. Nhưng người này cũng tìm cách khước từ:
-
“Tôi mới cưới
vợ, không có thì giờ đi đâu cả !”
(x
Lc 14,15-20)
Thật là vô lý, có ai
mua đất mà lại không xem đất trước khi bỏ tiền mua? Có ai mua bò rồi mới đi thử
xem nó khỏe hay yếu ? Còn ai đã lấy vợ, đã ổn định việc hỏi cưới, sao không đưa
vợ đi dự tiệc chung, vì tiệc lúc nào cũng còn trống chỗ, đến nỗi chủ tiệc sai
đầy tớ ra đường nài ép bất luận ai vào dự tiệc!
Vậy :
“Tôi bảo không có giờ làm việc này, chỉ có
nghĩa là tôi dành giờ cho việc mà tôi cho là quan trọng. Quan trọng việc gì,
thì có giờ cho việc đó !”
2/ CHỈ CẦU NGUYỆN NHỜ, VỚI, TRONG CHÚA GIÊSU, MỚI
ĐƯỢC PHÚC LÀNH CỦA THIÊN CHÚA.
Việc
cầu nguyện đạt đỉnh cao nơi Phụng Vụ Chúa Giêsu thiết lập, đặc biệt là Thánh Lễ,
vì Đức Giêsu đã nói : “Chúa Cha chỉ muốn
gặp những người thờ phượng Ngài trong Thần Khí và Sự Thật” (Ga 4,23-24).
-Thần Khí là Lời
Chúa (x Ga 6,63).
-Sự Thật là Chúa
Giêsu (x Ga 14,6).
Vậy thờ phượng Chúa
Cha trong Thần Khí và Sự Thật, chính là thờ phượng Người nhờ Hy Tế của Chúa Giêsu.
Vì Thần Khí (Lời Chúa) và Sự Thật (Chúa Giêsu) là hai phần chính của Thánh Lễ.
Thực vậy, mở đầu Tin
Mừng của Luca, vị tư tế thời Cựu Ước là ông Dacarya, sau buổi cầu nguyện, ông
trở ra với dân thì ông đã bị câm, ông không nói được gì với ai, ông chỉ giơ tay
quơ quơ làm hiệu, và mọi người hiểu rằng ông đã gặp sự lạ (x Lc 1,22).
Kết thúc Tin Mừng, Vị
Thượng Tế Tối Cao thời Tân Ước chính là Chúa Giêsu, sau cuộc đời phục vụ đến
mất mạng, và Ngài đã từ cõi chết sống lại, trước khi lìa biệt các môn đệ lên
trời, Ngài giơ tay chúc lành cho họ (x Lc 24,50).
Hai sự kiện đối lập
trên, thánh sử Luca muốn xác quyết cho chúng ta rằng :
* Ông Dacarya là tư tế cuối cùng của Cựu Ước, dù việc ông trúng thăm vào
dâng hương trong cung thánh để cầu nguyện là được Chúa chọn, nên Chúa đã hứa
cho ông sinh con trong tuổi già. Nhưng việc cử hành Phụng Vụ của ông Dacarya
theo thể thức ông Môsê thiết lập từ nay phải cáo chung : Phụng Vụ này không còn
nói gì được cho dân nữa : Ông Dacarya bị câm! Là dấu chỉ Phụng Vụ Do Thái không
thể nói với ai được điều gì có giá trị, vị tư tế có giơ tay lên cũng chỉ quơ
quơ vô ích.
* Khi Phụng Vụ Cựu Ước đến ngày cáo chung, thì Chúa Giêsu là Vị Thượng Tế
của thời Tân Ước bắt đầu xuất hiện để thi hành ý Cha trên trời, hơn tư tế
Dacarya chỉ làm những động tác theo nghi thức Phụng Vụ của loài người thiết lập,
nên thua xa Chúa Giêsu, Ngài thiết lập Phụng Vụ mới thay thế Phụng Vụ Do Thái
bằng cả một cuộc đời phục vụ theo ý Cha cho đến chết trên thập giá. Rồi Ngài truyền
cho Hội Thánh phải làm hiện tại hóa Hy Lễ đó. Nói như kiểu thánh Gioan: “Ai nói mình ở trong Chúa Giêsu, thì Người đi
đứng thế nào, kẻ ấy cũng phải như thế”
(1Ga 2,6). Chỉ khi nào vị Tư Tế thời Tân Ước sống như Chúa Giêsu đã sống, khi
họ dâng Lễ mới có thể giơ tay ban phúc lành cho dân, nối dài phúc lành từ bàn
tay Chúa Giêsu Phục Sinh trên các thánh Tông Đồ.
3/ KẺ NÀO
KHÔNG TIN CHÚA LÀ KẺ CÂM, ngược lại
kẻ không nói về Thiên Chúa thì thua ma quỷ. Vì “trong hội đường của họ, có một người bị thần ô uế nhập, la lên rằng
: “Ông Giêsu Nadarét, chuyện chúng tôi
can gì đến ông mà ông đến tiêu diệt chúng tôi ? Tôi biết ông là ai rồi : ông là
Đấng Thánh của Thiên Chúa !” (Mc 1,23-24).
Trong
hai cuộc Truyền Tin cho ông Dacarya và cho Đức Maria, chúng ta thấy hai câu hỏi
của ông Dacarya và của Đức Maria nội dung tương tự giống nhau
-Ông Dacarya khi
được Thiên thần báo cho biết sẽ sinh con, thì ông thắc mắc thưa lại : “Làm sao tôi biết được, vì tôi đã già và vợ
tôi đã cao niên ?” (Lc 1,18).
-Khi Thiên thần
báo tin cho Mẹ Maria: “Bà sẽ sinh Con
Đấng Tối Cao”,thì Mẹ cũng thắc mắc : “Điều
ấy sẽ làm sao, vì việc vợ chồng tôi không nghĩ tới” (Lc 1,34).
Tại
sao sau câu hỏi của ông Dacarya, liền bị Thiên thần kết án : “Vì ông không tin nên Chúa cho ông một dấu :
bị câm !” (x Lc 1,19-20)
Trong
khi đó, bà Elysabeth ca tụng Đức Maria : “Em
thật có phúc vì đã tin rằng Chúa sẽ thực hiện những gì Người sẽ nói với em”
(Lc 1,45).
Sở
dĩ ông Dacarya bị câm. Vì “sứ thần nói :
"Tôi là Gabiel, hằng đứng chầu trước mặt Thiên Chúa, tôi được sai đến nói
với ông và loan báo tin mừng ấy cho ông.Và này đây ông sẽ bị câm, không nói
được, cho đến ngày các điều ấy xảy ra, bởi vì ông đã không tin lời tôi, là
những lời sẽ được ứng nghiệm đúng thời đúng buổi.” (Lc 1,19-20 : Tin Mừng).
Trong khi đó ông Dacarya là tư tế, ông am hiểu Kinh Thánh,Thiên Chúa là Đấng
toàn năng và yêu thương, Ngài đã từng làm cho nhiều đôi vợ chồng già sinh con,
cụ thể : vợ chồng Abraham và Sara đã được Chúa cho sinh Isaac (x St 18,11) ; vợ
chồng Giacob và Rakel, Chúa cho sinh Giuse và Benyamin (x St 30,22-24 ; 35, 16-19)
; vợ chồng Manoah, Chúa cho sinh Samson (x Tl/Qa 13,2); vợ chồng Elqanah và
Anna, Chúa cho sinh Samuel (x 1Sm 1,9t) v.v…
Những
đôi vợ chồng cao niên trên đây Chúa đã cho sinh con,không đủ bằng chứng cho ông
Dacarya tin vào quyền năng và tình thương của Chúa hay sao? Mà ông còn thắc mắc
: Già rồi, sao có thể sinh ?
Khác
hẳn Đức Maria, Mẹ thắc mắc vì không ăn ở với người nam làm sao lại có thai? Quả
thật trong lịch sử loài người, chưa hề xảy ra một trường hợp nào như thế, do đó
Đức Maria có quyền xin lời giải thích, và khi Thiên thần đã giải thích cho Đức
Maria là do quyền năng của Chúa Thánh Thần, thì Mẹ mau mắn nói tiếng Xin Vâng
ngay.
Bởi
thế, lời Kinh Thánh nói : “Kẻ
nào không tin Thiên Chúa thì vô phương đẹp lòng Chúa” (Dt 11,6).
4/ PHẢI SAY SƯA LỜI CHÚA, CHỨ ĐỪNG SAY RƯỢU, MỚI TRỞ
NÊN CHỨNG NHÂN CỦA CHÚA.
- Khi vợ ông
Manoah được Chúa cho biết sẽ sinh một con trai đặt tên là Samson, thì Chúa cấm
bà không được động đến chất có men (x Tl/Qa 13,4.7 : Bài đọc).
- Khi ông Gioan
được chào đời, ông Dacarya cũng nói về con của ông: Không đụng đến chất có men
(x Lc 1,15).
Bởi
vì rượu như con dao hai lưỡi : Trong sinh hoạt ăn uống hằng ngày, nhất là tiệc
tùng, không có rượu thì không phải là tiệc. Chính Đức Maria khi dự tiệc cưới
Cana, người ta thiếu rượu, Mẹ đã can thiệp lên tiếng nói với Đức Giêsu ban cho
họ rượu mới ngon hơn rượu cũ (x Ga 2,3t) ; Đức Giêsu cũng dùng rượu để lập Bí
tích Thánh Thể (x Lc 22,17) ; thánh Phaolô cũng khuyên đồ đệ Timôthêu nên uống
chút rượu cần cho sức khỏe (x 1Tm 5,23).
Nhưng lạm dụng rượu đến say xỉn thì vô cùng độc ác,
con người mất hết danh dự, mất uy tín. Chính vì vậy mà Thánh Kinh đã không tiếc
lời nguyền rủa những kẻ mê rượu : “Dành
cho ai những “thôi rồi”? Dành cho những “hỡi ôi”? Dành cho ai những gây gổ?
Dành cho ai những lời than vãn? Dành cho ai những vết thương chẳng lý do? Dành
cho ai những con mắt đỏ ngầu? Đó là những kẻ nán lại bên bầu rượu, những kẻ đã
nếm đủ thứ rượu ngon! Đừng để mắt ngó rượu, nó đỏ làm sao, nó óng ánh thế nào
trong chén, rồi nó ực xuống cổ! Nhưng cuối cùng nó cắn như rắn lục, nọc độc hổ
mang! Mắt con sẽ thấy những điều lạ lùng, và miệng con sẽ nói ba hoa bậy bạ”
(Cn 23,29-33- Bản dịch NTT).
Ngôn sứ Habacuc cũng lên án : “Khốn thay kẻ chuốc rượu cho anh em mình,kẻ pha chất độc làm cho nó say
sưa, để thấy nó trần truồng.Ngươi đã thấm nhục nhã, chứ không phải vinh quang. Đến
lượt ngươi, ngươi phải uống và để lộ của quý ra.” (Habacuc 2,15-16a).
Vì những kẻ mê rượu để hưởng thụ sự ngây ngất làm mất
uy tín của mình, nên dù nó có nói phải, người ta cũng kết án là rượu nói, chẳng
ai muốn nghe. Thánh Phêrô trong lúc say sưa giảng Lời cho một tập thể từ khắp
tứ phương kéo đến, ít nhất có 3.000 người nghe ông Phêrô giảng đã xin chịu
Thánh Tẩy. Những người khác chống đối sự kiện ấy, thì họ lếu láo kết án ông : “Lão
bứ rượu rồi !” Ông Phêrô phải lên tiếng giải thích : “Bây giờ mới là giờ thứ ba (9 giờ sáng), chưa
đến giờ ăn uống, làm sao nói tôi say”, nhưng họ vẫn không tin ông ! (x Cv
2,13.15)
Vì vậy thánh Phaolô khuyên : “Đừng say sưa rượu chè chỉ tổ hư
thân, nhưng hãy làm sao cho được no đầy Thần Khí.” (Ep 5,18).
Vậy chỉ những ai say sưa Lời Chúa mới xứng đáng được Lời
Kinh Thánh xác nhận : “Miệng chứa chan
lời tán tụng Chúa,suốt ngày con chẳng ngớt tôn vinh Ngài” (Tv 71/70,8 : Đáp
ca).
“Lạy Đức Kitô
là mầm non từ gốc tổ Giesê, Ngài chiêu tập muôn dân dưới hiệu kỳ. Xin đến mà
giải thoát, đừng trì hoãn làm chi” (Tung Hô Tin Mừng).
THUỘC LÒNG
- Đừng say sưa
rượu chè chỉ tổ hư thân, nhưng hãy làm sao cho được no đầy Thần Khí. (Ep
5,18).
- Kẻ nào không
tin Thiên Chúa thì vô phương đẹp lòng Chúa (Dt 11,6).
http://phaolomoi.net