BÀI GIẢNG
KHÔNG THỂ THỜ CHÚA NHƯ THỜ CỦA !
Tin
Mừng hôm nay như xô chúng ta đến tòa Chúa phán xét, vì thế giới này sẽ có ngày
tận cùng (cánh chung), ngày đó chỉ có Thiên Chúa xét xử mọi người : Ngài cho
mọi người sống lại và phân người ta ra làm hai loại:
-
Con cái thế gian tôn thờ tiền của sẽ
bị loại trừ.
-
Con cái Thiên Chúa làm cho vạn vật cùng
với con người tôn vinh Thiên Chúa, sẽ được sống vinh quang muôn đời.
***
I. CON CÁI THẾ GIAN TÔN THỜ TIỀN CỦA SẼ
BỊ LOẠI TRỪ.
Đức Giêsu nói: “Con cái thế gian khôn khéo hơn con cái ánh sáng khi xử sự với người
đồng loại” (x Lc 16,8b : Tin Mừng). Họ khôn là vì tìm kẽ hở của Luật để vơ
vét của cải, mà lương tâm họ không hề bị cắn rứt :
1/ Lách Luật xã hội để thủ lợi. Cụ
thể tên quản lý bất lương biết mình không được chủ cho tiếp tục làm quản lý, vì
hắn bị mang tiếng là phá tán tài sản của chủ, nên hắn gọi các con nợ đến và bảo
: “Bác nợ chủ tôi bao nhiêu vậy? Người
ấy đáp: "Một trăm thùng dầu ô-liu. Anh ta bảo: "Bác cầm lấy biên lai
của bác đây, ngồi xuống mau, viết năm chục thôi. Rồi anh ta hỏi người khác:
"Còn bác, bác nợ bao nhiêu vậy? Người ấy đáp: "Một ngàn giạ lúa. Anh
ta bảo: "Bác cầm lấy biên lai của bác đây, viết lại tám trăm thôi.”
(Lc 16,5-7 : Tin Mừng).
Tại sao
người quản lý này lại bảo con nợ làm như thế ?
Thưa vì
:
a- Luật Do Thái
chỉ cho người đồng chủng vay mà thôi, và không lấy lời đối với người nghèo (x
Xh.22,24 ; Lv.25,36 ; Dnl.23,20t).
Các Luật
sĩ lại cắt nghĩa : người nghèo là người không đủ dầu để thắp một ngọn đèn, và
không đủ bột để làm một chiếc bánh ! Giải thích như vậy thì không thể có người
cùng khốn đi vay!
b- Cách tổ chức giao dịch thương mại : Theo
giáo sư J.Derrett trong tập “Law in the New Testament” trang 48-77 xuất bản tại
London năm 1970, cho biết : Người đi vay không trực tiếp với chủ của, mà qua
trung gian người quản lý. Chủ của không trực tiếp trả lương cho quản lý, nhưng
người quản lý được ăn huê hồng trong các dịch vụ về cả hai phía : chủ của và con
nợ. Số huê hồng được tính luôn trên văn tự của con nợ. Cho vay dầu được lấy lời
100%, cho vay lúa lời 25%.
Người quản lý bảo kẻ vay dầu viết 50
thùng vốn thay vì 100 cả vốn lẫn lãi ; và kẻ vay lúa viết 80 thùng vốn bớt đi
20 thùng lời !
Khi người quản lý cầm giấy nợ về
trình chủ, người chủ hiểu đó là vốn của chủ, hắn cho người nghèo vay, nên không
có lời ! Nhưng thực tế, người quản lý chỉ viết số vốn của chủ và giấu đi số
lời.
Anh này làm thế đã được Đức Giê-su
khen rất khéo : chủ không có cớ tố cáo anh trước pháp luật, vì anh không phá
tán tài sản của chủ như có kẻ xấu miệng báo cáo (x Lc 16,1 : Tin Mừng), cùng
lắm là chủ không tính huê hồng cho anh thôi, và nếu chủ truất chức quản lý, thì
anh đã có các con nợ được anh bảo đừng viết số lời vào giấy nợ, sẽ đón tiếp anh
và chia cho anh số lời chưa nộp chủ.
2/
Lách Luật đạo.
Theo Luật ông Môsê, người Do Thái
phải nghỉ mọi việc trong ngày lễ buộc. Nhiều người giàu cảm thấy những ngày lễ
đó cản trở công việc làm ăn của họ, thế nên họ chỉ mong ngày lễ chóng qua để có
cơ hội làm giàu, nên ngôn sứ A-mốt (Bài đọc I) đã trách cách sống đạo của dân
Chúa tuyển chọn, vì họ nói :
- “Bao giờ ngày hưu lễ qua đi, để
ta mở cửa bán hàng” (Am.8,5a).
Đáng lẽ ngày lễ của Chúa phải là
ngày vui mừng (x Công Đồng Vat.II trong HCPV.106) để đến tôn thờ Chúa, thì lắm
kẻ có Đạo lại cho đó là ngày họa, ngăn trở công ăn việc làm !? Mong cho chóng
hết ngày lễ nghỉ để :
- “Ta bóp méo đấu đong, làm cân
gỉa mạo” (Am.8, 5b).
Tức là gian dối trong mọi sinh hoạt,
miễn là chiếm đoạt được nhiều tiền, thì có nhiều thần, nhiều chúa phù hộ kiếp
sống ! (x Lc 12,16t) Vì với tiền bạc khi có dư :
- “Ta tậu người nghèo bằng đôi dép” (Am.8, 6a).
Đánh giá mạng người là hình ảnh của
Thiên Chúa chỉ bằng đôi dép !? Ngày nay một số ngừơi buôn bán thuốc tây lậu, đã
đổi mạng người bằng chai nước lã thay vì nước biển ! Thế mà vẫn không cắn rứt
lương tâm, đã có thần tiền hướng dẫn lương tâm họ ! Vì “lương tâm” không bằng “lương
lậu”, nên :
-
“Lúa nát gạo mục quét bỏ, ta cũng bán đi” (Am.8, 6b).
Kẻ
tôn thờ tiền của, không có gì dư thừa để chia sẻ, vì họ thích đọc kinh cầu dưới
đây :
TIỀN là tiên là thần,
Nó cần cho ngừơi,
Nụ cười tuổi trẻ,
Sức khoẻ tuổi già,
Cái đà danh vọng,
Cái lọng che thân,
Cán cân công lý,
Cái lý kẻ mạnh,
Sức mạnh
vô quan, …
Ôi tiền hết ý !!!
II. CON CÁI THIÊN CHÚA LÀM CHO VẠN
VẬT CÙNG VỚI CON NGƯỜI TÔN VINH THIÊN CHÚA.
Đức Giêsu
dạy : “Hãy dùng tiền của bất lương mà gây thân nghĩa, phòng khi hết tiền hết
bạc họ sẽ đón rước anh em vào nơi vĩnh cửu” (Lc 16,9 : Tin Mừng).
Chắc
chắn Đức Giêsu không có ý dạy ta phải hành động ma giáo, lươn lẹo như anh quản
lý trong Tin Mừng, cũng chẳng bảo ta sống bất lương để có tiền của mà làm việc
bác ái. Mà cụm từ “tiền của bất lương” chỉ có ông Luca ghi và cho biết nó có thể xấu, có thể tốt, tùy theo cách
chiếm đoạt hoặc cách dùng nó!
A. XÉT
VỀ MẶT LUÂN LÝ ĐẠO ĐỨC.
Nếu đã gian lận ai, nay sám hối muốn
đền trả, mà không biết chủ của ở đâu, thì hãy dùng tiền của đóng góp vào những
sinh hoạt của Hội Thánh, hoặc là chia sẻ cho người nghèo. “Đó là người hạnh phúc vì biết kính sợ Thiên Chúa” (Tv 112/111,1a).
B. XÉT
VỀ MẶT ĐỨC TIN.
1-
Tiền của có thể xấu :
Dưới
ngòi bút của ông Luca cho ta biết tiền của rất nguy hiểm, nó có sức mê hoặc
lòng người bỏ Chúa. Đan cử :
a- Trong trình thuật Đức Giêsu chịu ma quỷ cám dỗ, chỉ có
ông Luca ghi quỷ nói với Đức Giê-su : “Tôi
sẽ cho ông toàn quyền cai trị cùng với vinh
hoa lợi lộc của các nước này, vì quyền hành ấy đã được trao cho tôi, và tôi muốn cho ai tuỳ ý. (x Lc.4,5-6).
Như vậy tiền
của là mồi ngon, nhạy bén, quỷ dùng để nhử câu loài người !
b- Chỉ có ông Luca ghi ông phú hộ được mùa không còn nơi
tích trữ thóc lúa, ông cho đốt kho cũ và xây kho mới để chất của, rồi ru hồn :
“Nghỉ đi, ăn uống vui chơi đi, sướng chán”.
Nhưng Thiên Chúa bảo nó : “Đồ ngốc, đêm
nay ngươi ra khỏi thế gian, thì của đó thuộc về ai” (x Lc 12,13-21).
Như vậy tiền
của ru người giàu thích hưởng thụ, tôn nó làm lẽ sống, làm chúa phù hộ con
người.
c- Chỉ có ông Luca ghi người cha có hai đứa con, cũng vì
con cái đòi hưởng gia tài của cha, mà lúc nào ông cũng mất một người con (x Lc
15,11-31).
Như vậy, chính
vì tài sản của gia đình mà cha mẹ phải điên đầu với con cái
d- Chỉ có ông Luca ghi tên đầy tớ bất lương : hắn đưa lúa,
dầu của chủ cho người ta vay, và hắn đã giấu số lời đi (x Lc 16,1-13).
Như vậy vì tiền
của mà tên đầy tớ tán tận lương tâm.
e- Chỉ có ông Luca ghi phú hộ quá giàu sang, ngày ngày yến
tiệc linh đình trong những bộ y phục đắt giá, sang trọng, mà không chia sẻ cho
người nghèo nằm ngay đầu ngõ một mẩu bánh thừa. Kết thúc đời phú hộ, hắn bị dìm
sâu xuống hỏa ngục (x Lc 16,19-31).
Như vậy, vì mê
hưởng thụ tiền của mà không biết chia sẻ là nguyên nhân mất sự sống đời đời.
g- Chỉ có ông Luca ghi hai vợ chồng Hananya và Saphira đã
nói dối ông Phêrô để giấu đi một số tiền bán đất, mà dám nói là đã dâng hết.
Hậu quả cả hai vợ chồng đều chết gục dưới chân thánh Phêrô (x Cv 5,1-11).
Như vậy, lấy
của cải làm lẽ sống, là nơi nương tựa an toàn, nên dám nói dối, miễn là giữ
được tiền, cuối cùng bị tử thần chộp mạng !
2- Tiền của trở nên tốt cho người biết
dùng theo ý Chúa :
Sáu chứng từ trên đây minh chứng
tiền của mang “chất bất lương”. Dầu thế, người theo Chúa lại cần “chất bất
lương” ấy để làm vinh danh Chúa, như sáu
mẫu người sau đây :
a’ Chỉ có ông Luca ghi sau khi
Đức Giêsu gọi ông Lêvi đi làm Tông Đồ cho Ngài lúc ông đang ngồi bàn thu thuế,
ông đã bỏ nghề rất có lợi, về nhà làm tiệc lớn đãi Ngài ; đồng bàn với các ngài
có đám đông những người thu thuế và nhiều người khác (Lc 5,29).
Như
vậy, bỏ việc kiếm tiền đi làm Tông Đồ và dùng tiền quy tụ mọi loại người, kể
cả người tội lỗi về cho Chúa là được
giàu Chúa và tậu được nhiều linh hồn về cho Ngài.
b’ Chỉ có ông Luca ghi vị sĩ quan ngoại giáo móc tiền túi xây hội
đường cho người Do Thái có nơi cầu nguyện, nên được nhiều người xin Đức Giêsu
cứu đầy tớ ông thoát chết (x Lc 7,3-4).
Như
vậy, người ngoại giáo còn biết dùng tiền của tạo nơi sinh hoạt tôn giáo cho
người thờ Thiên Chúa, thì tâm hồn họ là Đền Thờ của Thiên Chúa .
c’ Chỉ có ông Luca ghi bà Maria
Madalena, một người tội lỗi khét tiếng, đã dùng tiền của giúp Đức Giêsu và các
Tông Đồ đi truyền giáo (x Lc 8,1-3).
Như
vậy, nhờ tiền của Tin Mừng được phát triển rộng rãi.
d’ Chỉ có ông Luca ghi ông Giakêu,
trưởng ty quan thuế khi đón Đức Giêsu vào nhà, ông đã tự ý bán tài sản chia cho
người nghèo một nửa. Lòng nhân ấy được Đức Giêsu tuyên bố : “Cả nhà ông được cứu độ” (x Lc 19,9).
Như
vậy biết dùng tiền của để chia sẻ cho đồng loại, thì làm cho mọi người thuộc về
mình được sống đời đời.
e’ Chỉ có
ông Luca ghi các tín hữu bán tài sản đem đặt dưới chân các Tông Đồ để phân phát
đồng đều cho mọi người (x Lc 2,44-45 ; Cv 5,32-35).
Như
vậy, nhờ tiền của các tín hữu thể hiện tình thương và tôn trọng nhau như
chính mình.
g’
Chỉ có ông Luca ghi bà Linh Dương khi còn sống đã may nhiều y phục chia sẻ
cho đồng loại, khi bà chết, cả cộng đoàn đi tìm ông Phêrô để mời ông đến cùng
cầu nguyện cho bà, thế là bà được sống lại (x Cv 9,36-43).
Như
vậy, biết dùng tiền của chia sẻ thì được thoát tay tử thần.
Với
cái nhìn về tiền của có hai mặt đối lập như trên, nên ông Luca ghi Lời
Đức Giêsu dạy : “Hãy dùng tiền của bất
lương mà gây thân nghĩa, phòng khi hết tiền hết bạc, người ta sẽ đón rước anh
em vào nơi vĩnh cửu” (Lc 16, 9 : Tin Mừng).
Vậy ta hãy dùng tiền của vào bốn mục
đích :
1.
Góp phần phát triển Tin Mừng và xây dựng
Hội Thánh là thực hành điều răn thứ
năm mới của Hội Thánh (x GLHT số 2041-2043).
2. Đủ nuôi
thân xác mình cho có sức khỏe để phục vụ tốt : Không hà tiện, không xa xỉ ! (x St 2,16)
3. Dùng làm phương tiện để phục vụ đồng
loại, nhờ đó nhiều người có điều kiện sống tốt hơn. (x Lc 19,11t)
4. Chia sẻ cho người không có khả năng
tự sống. (x Mt 25,31-46)
Trong những việc chia sẻ trên đây,
ta phải ưu tiên vào việc phát triển Tin Mừng và xây dựng Hội Thánh, để ta nối
dài công việc của các tín hữu thời sơ khai mà thánh Phao-lô đã lên tiếng khen :
“Anh em là những người xuất sắc trong
việc Tông Đồ… Đan cử như anh Ê-rát-tô quản lý kho bạc của thành phố”. Thánh
Phaolô còn lên tiếng khen ngợi nhiều tín hữu khác đã cộng tác với ông trong việc
truyền giáo (x Rm 16,3-27).
Cũng chính vì thế mà thánh Phaolô đã
viết thư khen và cám ơn các tín hữu thuộc giáo đoàn Philipphê : “Đấng ban sức mạnh cho tôi, tôi chịu được
hết. Tuy nhiên, anh em đã chia sẻ với tôi, khi tôi gặp cơn quẫn bách, như thế
là phải. Không có Hội Thánh nào đã đóng góp các khoản chi thu của tôi, chỉ có
anh em thôi. Điều tôi tìm kiếm không phải là quà tặng, mà là những gì sinh hoa
kết quả dồi dào cho anh em. Thiên Chúa của tôi thỏa mãn mọi nhu cầu của anh em
một cách tuyệt vời, theo sự giàu sang của Người trong Đức Kitô Giêsu” (Pl
4,10-19).
Vậy
chúng ta phải cầu nguyện cho mọi người, nhất là những người đang nắm giữ quyền
chức và cả những người giàu có, để họ đừng lạm dụng quyền mà bóc lột người
khác, nhưng hãy dùng uy tín của mình mà nâng đỡ những người đau khổ, bần cùng,
không chỉ hiểu về mặt vật chất mà nhất là nghèo Chúa, như lời thánh Phao-lô dạy
: “Tôi khuyên ai nấy dâng lời cầu xin,
khẩn nguyện, nài van, tạ ơn cho tất cả mọi người, cho vua chúa và cho những
người cầm quyền, để chúng ta được an cư lạc nghiệp và sống thật đạo đức và
nghiêm chỉnh, như chính tôi đã được đặt làm
người rao giảng và làm Tông Đồ thày dạy các dân ngoại về mặt Đức Tin và
chân lý” (1Tm 2,1-8 : Bài đọc II).
Bởi vì nếu ta không cầu nguyện cho
mọi người, nhất là cho người có quyền chức, thì họ dễ lạm dụng thế lực để chiếm
hữu tiền của. Thật hiếm có ai dùng quyền đang nắm để dẫn dắt người khác biết
dùng tiền của vào bốn mục đích theo ý Chúa
! Chính ông thủ tướng Trần văn Hương xác nhận : “Nếu diệt hết tham nhũng
quốc gia lấy ai làm việc ?” Ngày
nay trong các phiên tòa xử tội kẻ tham những, thì toàn là những kẻ có địa vị,
có thế lực trong xã hội ! Ta phải cầu nguyện cho mọi người như thế, vì chỉ khi
nào họ nhận biết Thiên Chúa là Vua hướng dẫn mọi người để biết dâng lời cầu : “Lạy
Thiên Chúa con thờ là Vua của con, xin chúc tụng danh Chúa đến muôn đời”(Tv
145/144,1).
Vậy con cái Thiên Chúa, con cái sự
sáng phải ý thức rằng Chúa là Chủ của, Ngài trao cho ta làm quản lý, nếu ta
biết cách dùng tiền của Chúa ban mà giúp đồng loại, không lấy lời như người
quản lý bất lương trong Tin Mừng, hoặc ta cho luôn cả vốn, để gây thân nghĩa
với đồng loại, thì ta không phải là kẻ bất lương mà là người khôn ngoan trước
mặt Chúa. Đây là điều Chúa đang thách đố ta. Có như thế ta mới thực là con Đấng
Tối Cao (x Lc 6,35), để mỗi khi dâng Lễ, ta cùng với muôn tạo vật hát bài Thánh
vịnh : “Nào ca ngợi Thánh Danh Chúa đi, Người cất nhắc những ai nghèo túng”
(Tv 113/112,1a.7b : Đáp ca). Vì ta đã làm giàu cho đồng loại, bắt chước Đức Kitô,
“Ngài vốn dĩ giàu sang phú quý, nhưng đã trở nên nghèo khó, để lấy cái nghèo
của mình mà làm cho ta trở giàu có” (2Cr 8,9).
Mạnh
Thường Quân là người rất giàu có, đã cho nhiều người ở đất Tiết mượn tiền. Một
hôm ông sai Phùng Huyên – người đầy tớ – sang đất Tiết đòi nợ. Lúc sắp đi,
Phùng Huyên hỏi :
- Tiền nợ thu được, ngài có định mua
gì không?
Mạnh Thường Quân nói :
- Ngươi xem trong nhà ta còn thiếu
thứ gì thì mua.
Khi đến đất Tiết, Phùng Huyên cho
gọi các con nợ đến và bảo :
- Các người nợ chủ tôi thế nào, đưa
giấy nợ cho tôi coi.
Họ liền đưa giấy nợ cho Phùng Huyên,
sau khi xem xong, Phùng Huyên bật quẹt đốt hết!
Mọi người ngạc nhiên hỏi :
- Sao thế ?
Phùng Huyên trả lời :
- Vì ông chủ bảo tôi nói với các người là ông tha hết nợ
cho dân đất Tiết.
Lúc trở về, Mạnh Thường Quân hỏi :
- Ngươi đã mua cho ta cái gì?
- Nhà của ngài châu báu đầy kho, gia
súc vô số kể… chỉ thiếu “nghĩa”, nên tôi lấy hết tiền nợ mua nghĩa cho ngài
rồi.
Mạnh Thường Quân bực mình, vì ông
chưa hiểu mua “nghĩa” là mua cái gì?
Sau
này Mạnh Thường Quân lâm bệnh nan y, bán hết gia sản để chữa bệnh mà
bệnh vẫn không thuyên giảm. Dân đất Tiết nghe tin ấy, họ lũ lượt kéo đến thăm
và biếu ông đủ thứ, nhất là họ biếu ông một hộp thuốc quý, ông uống vào thì
khỏi bệnh ngay. Lúc ấy ông mới hiểu Phùng Huyên đã mua “nghĩa” cho ông là vậy !
THUỘC LÒNG.
Hãy
dùng tiền của vào bốn mục đích :
1. Góp
phần phát triển Tin Mừng và xây dựng Hội Thánh (GLHT số 2041-2043).
2. Đủ nuôi thân xác mình cho có sức
khỏe để phục vụ tốt : Không hà tiện, không xa xỉ (St 2,16).
3. Dùng làm phương tiện để phục vụ đồng
loại cho hữu hiệu nhất (x Lc 19,11t).
4. Chia sẻ cho người không có khả năng
tự sống (x Mt 25,31-46).