BÀI ĐỌC 1 VÀ 2 (NẾU CÓ)
BÀI ĐỌC I :
Cv 13,14.43-52
14
Ngày ấy hai ông Phao-lô và Ba-na-ba rời Péc-ghê tiếp tục đi An-ti-ô-khi-a miền
Pi-xi-đi-a.Ngày sa-bát,hai ông vào hội
đường ngồi tham dự.
43 Tan buổi họp, có nhiều người Do-thái và nhiều người
đạo theo, tức là những người tôn thờ Thiên Chúa, đi theo hai ông. Hai ông nói
chuyện với họ và khuyên nhủ họ gắn bó với ơn Thiên Chúa.
44 Ngày sa-bát sau, gần như cả thành tụ họp nghe lời
Thiên Chúa. 45 Thấy những đám đông như vậy, người Do-thái sinh lòng
ghen tức, họ phản đối những lời ông Phao-lô nói và nhục mạ ông. 46
Bấy giờ ông Phao-lô và ông Ba-na-ba mạnh dạn lên tiếng: "Anh em phải là
những người đầu tiên được nghe công bố lời Thiên Chúa, nhưng vì anh em khước từ
lời ấy, và tự coi mình không xứng đáng hưởng sự sống đời đời, thì đây chúng tôi
quay về phía dân ngoại.47 Vì Chúa truyền cho chúng tôi thế này: Ta
sẽ đặt ngươi làm ánh sáng muôn dân, để ngươi đem ơn cứu độ đến tận cùng cõi
đất."
48
Nghe thế, dân ngoại vui mừng tôn vinh lời Chúa, và tất cả những người đã được
Thiên Chúa định cho hưởng sự sống đời đời, đều tin theo.49 Lời Chúa
lan tràn khắp miền ấy.
50 Nhưng người Do-thái
sách động nhóm phụ nữ thượng lưu đã theo đạo Do-thái, và những thân hào trong
thành, xúi giục họ ngược đãi ông Phao-lô và ông Ba-na-ba, và trục xuất hai ông
ra khỏi lãnh thổ của họ.51 Hai ông liền giũ bụi chân phản đối họ và
đi tới I-cô-ni-ô. 52 Còn các môn đệ được tràn đầy hoan lạc và Thánh
Thần.
ĐÁP CA : Tv 99
Đ. 3c Chúng ta
là dân Chúa, là đoàn chiên Người dẫn dắt.
1 Hãy
tung hô Chúa, hỡi toàn thể địa cầu,2 phụng thờ Chúa với niềm hoan
hỷ,vào trước thánh nhan Người giữa tiếng hò reo.
3 Hãy
nhìn nhận Chúa là Thượng Đế, chính Người dựng nên ta, ta thuộc về Người, ta là
dân Người, là đoàn chiên Người dẫn dắt.
5 Bởi vì
Chúa nhân hậu, muôn ngàn đời Chúa vẫn trọn tình thương, qua bao thế hệ, vẫn một
niềm thành tín.
BÀI ĐỌC II
: Kh 7,9.14b-17
9
Tôi là Gio-an, tôi thấy một đoàn
người thật đông không tài nào đếm nổi, thuộc mọi dân, mọi chi tộc, mọi nước và
mọi ngôn ngữ. Họ đứng trước ngai và trước Con Chiên, mình mặc áo trắng, tay cầm
nhành lá thiên tuế. 14b Họ là những người đã đến, sau khi trải qua
cơn thử thách lớn lao. Họ đã giặt sạch và tẩy trắng áo mình trong máu Con
Chiên.15 Vì thế, họ được chầu trước ngai Thiên Chúa, đêm ngày thờ
phượng trong Đền Thờ của Người; Đấng ngự trên ngai sẽ căng lều của Người cho họ
trú ẩn. 16 Họ sẽ không còn phải đói, phải khát, không còn bị ánh
nắng mặt trời thiêu đốt và khí nóng hành hạ nữa.17 Vì Con Chiên đang
ngự ở giữa ngai sẽ chăn dắt và dẫn đưa họ tới nguồn nước trường sinh. Và Thiên
Chúa sẽ lau sạch nước mắt họ."
BÀI GIẢNG
CHỦ CHIÊN VÀ
CHIÊN
Chúa
nhật này được gọi là Chúa nhật “Ơn Thiên
Triệu”, nhằm mục đích quy tụ muôn dân thành một “đoàn chiên của Thiên Chúa”. Muốn làm thế giới này mọi người trở
nên một đoàn chiên của Chúa:
- Ta phải nhận biết Chúa
Giêsu là Vị Mục Tử nhân lành của loài người có một không hai.
- Ta phải đặt chỉ tiêu
cho mình trở thành chiên ngoan của Mục Tử Giêsu.
- Ta phải trở thành mục
tử cho đồng loại theo mẫu gương Chúa Giêsu.
&&&
I. NHẬN BIẾT CHÚA GIÊ-SU LÀ Vị MỤC TỬ NHÂN LÀNH CỦA
LOÀI NGƯỜI CÓ MỘT KHÔNG HAI.
Đức
Giêsu nói về những người có trái tim
nghe Lời Ngài : “Tôi ban cho chúng sự
sống đời đời, không bao giờ chúng bị diệt vong, không ai giựt được chúng khỏi
tay tôi. Cha tôi, Đấng đã ban chúng cho tôi, thì lớn lao hơn tất cả, và không
ai giựt được chúng khỏi tay Cha tôi. Tôi và Cha tôi là một” (Ga 10,28-30 :
Tin Mừng).
*
“Tôi
ban cho chúng sự sống đời đời”
(x Ga 10,28a) : Đối với những ai được kết hợp nên một với Chúa Giêsu,
đặc biệt qua Bí tích Khai tâm, kiên trì sống đức ái trong Hội Thánh (x HCHT số
14), thì họ có chết cách nào cũng sẽ được sống lại vinh hiển muôn đời (x Ga
6,54). Bởi đó, ai đã được Chúa Ki-tô cứu độ, thì cái chết thể lý của họ trước
mặt Chúa chỉ là một giấc ngủ (x Mc 5,39).
*
“Không
bao giờ chúng bị diệt vong” (x Ga 10,28b) : Diệt thì khác với giết.
Diệt là mất cả hồn lẫn xác, còn giết thì chỉ hại được thân xác ở đời này mà
thôi. Vì vậy Đức Giê-su nói với các môn đệ khi họ phải đương đầu với những quyền lực sự ác : “Đừng sợ những kẻ giết được thân xác, nhưng không thể giết được linh hồn
; hãy sợ Đấng có thể diệt cả hồn lẫn xác
trong hỏa ngục” (Mt 10,28). Đó là lý do một bà mẹ có bảy người con bị vua
hành quyết trước mặt bà, vì không theo lệnh vua bỏ Lề Luật Chúa mà thờ thần của
vua. Bà ghé miệng vào tai con thì thầm : “Mẹ
không rõ các con đã thành hình trong bụng mẹ thế nào. Không phải mẹ ban cho các
con Thần Khí và sự sống. Cũng không phải mẹ sắp đặt các phần cơ thể cho mỗi
người trong các con. Chính Đấng Tạo Hóa càn khôn đã nắn đúc nên loài người, và
đã sáng tạo nguồn gốc muôn loài. Chính Người do lòng thương xót, cũng sẽ trả
lại cho các con Thần Khí và sự sống, bởi vì bây giờ các con trọng Lề Luật của
Người hơn bản thân mình. Con ơi, con hãy thương mẹ : chín tháng cưu mang, ba
năm bú mớm, mẹ đã nuôi nấng dạy dỗ con đến ngần này tuổi đầu. Mẹ xin con hãy nhìn xem trời đất và muôn loài
trong đó, mà nhận biết rằng Thiên Chúa đã làm nên tất cả từ hư vô, và loài
người cũng được tạo thành như vậy. Con đừng sợ tên đao phủ này ; nhưng hãy tỏ
ra xứng đáng với các anh con, mà chấp nhận cái chết, để đến ngày Chúa thương
xót, Người sẽ trả con và các anh con cho mẹ” (2Mcb 7,22-23.27-29).
*
“Không
ai giựt được chúng khỏi tay tôi” (x Ga 10,28c) : Đức Giê-su hữu ý dùng
động từ giựt này, vì muốn ám chỉ
Ngài là ông Hô-sê mới gìn giữ người nghe Lời Ngài hơn ông Hô-sê đã gìn giữ bà
vợ Gô-mơ mang tính dâm đãng : Ta biết vào thời Cựu Ước, người đàn ông có nhiều
đặc quyền trong hôn nhân : họ có quyền lấy nhiều vợ, và muốn rẫy từ người vợ
nào tùy ý họ, khi họ khám phá ra bà nào có bất cứ điều gì không vừa ý. Thế mà
ông Hô-sê không dùng những đặc quyền này, ông chỉ trung thành và quyết tâm gìn
giữ người vợ dâm đãng. Đã nhiều phen ông bắt gặp vợ trong vòng tay tình lang,
ông vẫn dụ bà vào nơi vắng vẻ, lòng kề lòng thỏ thẻ tâm sự và tặng nhiều báu
vật. Nhưng vợ ông vẫn ngựa quen đường cũ. Ông mới nghĩ ra kế : “Phen này ta sẽ lột trần cái đĩ già của vợ ta
trước mặt các gã tình lang, để không ai giựt
được nó khỏi tay ta” (Hs
2,12 : Bản dịch NTT).
Chắc
chắn do ơn Chúa gìn giữ ông Hôsê sống trung thành với người vợ bất trung như
thế, để Chúa dùng ông báo trước về tình yêu của Thiên Chúa dành cho những ai
yêu mến nghe Lời Ngài và tuân giữ, dù nơi họ còn có điều bất xứng (x Rm 7,
18-19). Cũng không sự dữ nào có thể giựt
được họ khỏi tay Chúa Con và Chúa Cha. Đó là lý do khi Đức Giêsu thấy chị Matta
băn khoăn, bận rộn lo phục vụ bữa ăn thiết đãi Ngài, và chị đã tỏ ra bất mãn
khi thấy cô em Maria cứ ngồi dưới chân Thầy Giêsu để nghe giảng dạy, thì Ngài
đã cảnh tỉnh chị : “Matta, Matta, con lo
lắng xôn xao về nhiều chuyện quá, chỉ có một điều cần thôi, Maria em con đã
chọn phần tốt nhất, và không bị ai giựt
mất” (Lc 10,38-42).
Trước
năm 1975, một anh phi công đem lòng thương mến một cô lầm lạc làm nghề bán
thân. Anh hy vọng cưới cô về, cô cảm nhận được lòng quảng đại và yêu thương của
chồng và cô sẽ từ bỏ nếp sống cũ. Ai ngờ sau những ngày cưới không bao lâu, anh
phải ra chiến trường, vì có việc riêng anh phải trở về nhà, anh hoảng hốt bắt
gặp quả tang cô vợ đang trong vòng tay người tình. Anh chịu không nổi, đã rút
súng kết liễu hai mạng người ! Đời là thế, Chúa thì khác hẳn !
*
“Cha
tôi, Đấng đã ban chúng cho tôi, thì lớn lao hơn tất cả” (Ga 10,29a) :
Lý do Đức Giêsu đã nói với các môn đệ : “Những
gì của Thầy là của Cha, và của Cha cũng là của Thầy”(Ga 17,10), và “mọi quyền năng trên trời dưới đất Cha đã
trao vào tay Thầy” (Mt 28,18). Nhưng trong những quà tặng Chúa Cha trao vào
tay Chúa Con, thì không có gì Đức Giêsu yêu quý hơn “những người Cha đã lấy từ
trong thế gian mà ban cho Con, và Con đã ban lại cho chúng những Lời của Cha,
và chúng đã giữ Lời Cha” (x Ga 17,6-8). Bởi thế Đức Giêsu gìn giữ họ không
bị sự dữ nào giựt được họ khỏi tay Ngài.
*
“Không
ai giựt chúng khỏi tay Cha tôi. Tôi và Cha tôi là một” (Ga 10,29b-30) :
Như vậy người có trái tim nghe và thực hành Lời Chúa, họ ở trong vòng tay quyền
năng yêu thương của Chúa Con và Chúa Cha, để không sự dữ nào giựt được họ khỏi
tay Chúa Con (x Ga 10,28c) và cũng không ai giựt được họ khỏi tay Chúa Cha (x
Ga 10,29b). Bởi vì cả Chúa Con và Chúa Cha cùng một quyết tâm gìn giữ họ.
Hình
ảnh “chiên ở trong tay Con và tay Cha”
còn gợi nhớ đến Tv 139/138, 5-10 : “ Chúa
chặn con trước (tay Chúa Con), Ngài ngừa con sau (tay Chúa Cha). Bàn tay của
Ngài (Con và Cha) đặt trên con mãi, và
tay hữu Ngài (quyền năng và yêu thương)
nắm lấy con”.
II. TA PHẢI ĐẶT CHỈ TIÊU CHO
MÌNH TRỞ THÀNH CHIÊN NGOAN CỦA MỤC TỬ GIÊSU.
Muốn
trở thành chiên ngoan của Mục Tử Giêsu, người Kitô hữu phải :
-
Nghe Lời Chúa.
-
Thanh tẩy mình bằng Lời Chúa và bằng máu đào.
-
Nên một trong Chúa Giêsu Phục Sinh.
a-
Ta biết
nghe Lời Chúa, như Lời Đức Giêsu nói : “Chiên của tôi thì nghe tiếng tôi” (Ga 10,27 : Tin Mừng), vì chiên
của Mục Tử Giêsu không phải do dòng
giống xác thịt nào sinh ra, mà là những người được thanh tẩy bởi Lời Chúa (x Ga
15,3), và cũng bởi Lời Chúa được tái sinh trở nên của lễ đầu mùa dâng tiến Chúa
(x Gc 1,18).
Bài
đọc I đã xác định điều này : Bất cứ ai – người Do Thái (dòng giống các đấng
thánh tổ phụ như ông Abraham, Giacob…), hay dân ngoại được ví như con chó (x Mt
15,21t) mà biết nghe Lời Chúa qua các chủ chăn của Hội Thánh (x Ga 18,19-21 ;
Lc 10,16), thì họ đều là chiên của Thiên Chúa. Trái lại, kẻ nào chống đối không
muốn nghe Lời Chúa, thì cho dù họ có cùng huyết thống với tổ phụ Abraham, Giacob
cũng sẽ bị loại ra khỏi đoàn chiên của Thiên Chúa ! (x Cv 13,14-52 : Bài đọc
I).
b-
Ta
được thanh tẩy không phải chỉ bằng Lời mà còn được thanh tẩy nhờ kết hợp với
Chúa Giêsu, ta phục vụ Tin Mừng đến đổ máu. Thực vậy, ông Phaolô và ông
Barnaba nhiệt tâm rao giảng Lời Chúa, đã chấp nhận đổ máu vì người Do Thái ghen
ghét, loại trừ (x Cv 13,44.50 : Bài đọc I). Người như thế mới được nhập vào “một đoàn người thật đông không tài nào đếm
nổi, thuộc mọi dân, mọi chi tộc, mọi nước và mọi ngôn ngữ. Mặc áo trắng tay cầm
ngành lá vạn tuế, sau khi trải qua cơn
thử thách lớn lao, họ đã giặt sạch và tẩy trắng áo mình trong Máu Con Chiên.
Nên họ được chầu trước ngai Thiên Chúa, đêm ngày thờ phượng trong Đền Thờ của
Người (dự Phụng Vụ); Đấng ngự trên ngai sẽ căng lều của Người cho họ trú ẩn
(Chúa che chở).… Vì Con Chiên (Chúa Giêsu Phục Sinh) đang ngự ở giữa ngai sẽ
chăn dắt và dẫn đưa họ tới nguồn nước trường sinh. Và Thiên Chúa sẽ lau sạch
nước mắt họ” (Kh 7,9.14b-17 : Bài
đọc II).
c-
Ta
nên một trong Chúa Giêsu Phục Sinh, được diễn tả
qua hình ảnh vợ chồng gắn bó với nhau và cùng đồng hành, như lời Chúa Giêsu nói
: “Tôi biết chúng và chúng theo tôi.”
(Ga 10,27b)
· “Biết’’
trong Thánh Kinh là sống đời vợ chồng với nhau. (x St 4,1 ; Lc 1,34). Chúa biết
ta từ lúc ta lãnh Bí tích Thánh Tẩy, ta đã trở nên Hiền Thê của Ngài (x 2Cr
11,2)
· “Chiên
theo Mục Tử” không phải bị bạo lực lôi kéo, mà vì từ nơi chủ chiên toát
ra hấp lực sự sống. Ví dụ bạn ôm bó cỏ đi vào giữa đàn dê, tức khắc cả đàn dê
theo sau bạn, vì hấp lực sự sống thúc bách chúng đi theo bạn. Cũng vậy, một đoàn lũ dân chúng đông đảo kể
không xiết chạy đi tìm Đức Giêsu, cũng chỉ vì họ biết Ngài dư quyền cho họ được
no bụng ! Nhưng Ngài phải dẫn họ đến dự tiệc Thánh Thể là của ăn thật, mới cho
họ sự sống đời đời vinh quang (x Ga 6,22-26).
Lý do quan trọng hơn ta phải
theo Chúa Giêsu để được Ngài bảo vệ, và Ngài còn biến dữ ra lành cho ta. Ta
biết cả một bầy chiên không thể chống cự lại một con sói hay con sư tử, vì
chúng có nanh vuốt sắc bén, lại nhanh như cắt và rất mạnh ; trong khi chiên
không có răng nanh ăn thịt, không có sừng, không có vuốt chống đối thủ. Bởi đó
chiên phải theo chủ mới được an toàn.
Ông Phaolô tuy là cột trụ Hội Thánh, ông giáo
dục được nhiều giáo đoàn, nhưng ông không thắng được tính yếu đuổi của bản thân,
ông đã thú nhận với giáo đoàn Roma : “Chẳng
có gì lành cư ngụ trong tôi, sự lành tôi muốn tôi không làm, còn sự dữ tôi
không muốn tôi lại cứ làm” (Rm 7,18-19). Ông Phêrô đã nói : “Ma quỷ thù địch của anh em, nó như sư tử gầm
thét rảo quanh tìm mồi cắn xé anh em” (1Pr 5,8), làm sao ông Phaolô có thể
thắng được con người yếu đuối của mình ? Bởi đó ông chỉ còn biết cầu nguyện và
bám chặt lấy Chúa như lời ông nói: “Đã ba
lần tôi nài xin Chúa nó rời khỏi tôi. Nhưng Ngài đã phán bảo tôi : ơn Ta đủ cho
ngươi. Vì chưng quyền năng được biểu lộ trọn vẹn trong sự yếu đuối”. Vì thế
ông Phaolô lại tự hào về sự yếu đuối của mình, nhờ ông đi theo Chúa. Ông nói :
“Khi tôi yếu chính là lúc tôi mạnh”
(2 Cr 12,7-10).
Người như thế mới đúng là chiên
của Thiên Chúa, được Ngài cứu độ.
III. TA PHẢI TRỞ THÀNH MỤC TỬ CHO ĐỒNG LOẠI THEO MẪU
GƯƠNG CHÚA GIÊSU.
Chúa
nói : “Ta sẽ đặt ngươi làm ánh sáng muôn
dân, để ngươi đem ơn cứu độ của Ta đến tận cùng cõi đất” (Cv 13,47 : Bài
đọc I). Để làm mục tử đem ánh sáng Tin Mừng cứu độ đến cho muôn dân, ta hãy bắt
chước Mục Tử Giê-su trong ba việc :
- Chia sẻ Lời Chúa cho
đồng loại.
- Hy sinh mạng sống vì
đem Tin Mừng cho đồng loại.
- Phó thác việc trong tay
Chúa và cầu nguyện cho đồng loại.
1/ Chia sẻ Lời cho đồng loại. Đức Giêsu
thưa với Chúa Cha về các môn đệ Ngài : “Các
Lời của Cha đã ban cho Con, Con đã ban lại cho chúng, chúng đã chịu lấy và nhận
thật rằng Con đã xuất tự Cha, cùng đã tin rằng chính Cha đã sai Con” (Ga
17,8).
Vậy
người mục tử của Chúa Giêsu có một ngôn ngữ riêng từ trời ban cho, đó là tiếng
kêu đặc thù để chăn dắt chiên. Trong nghề chăn chiên, khi lùa chúng ra khỏi
chuồng, mỗi mục tử có âm thanh riêng, chiên của chủ nào thì theo tiếng kêu đó
mà theo chủ, nó không theo người lạ, vì chiên nhận biết tiếng người lạ (x Ga 10,
4b-5). Vì vậy mà mục tử Phêrô dạy chúng ta : “Ai có nói thì nói Lời Thiên Chúa, ai phục vụ thì phục vụ bằng sức lực
Chúa ban, trong mọi việc chúng ta mới tôn vinh Thiên Chúa, nhờ Đức Giêsu Kitô”
(1 Pr 4,11).
2/ Hy sinh mạng sống vì đem Tin Mừng cho đồng loại. Người mục tử vừa
làm gương, vừa đem thân đỡ đạn bảo vệ đoàn chiên. Do đó, “người mục tử đi trước và chiên
theo sau” (x Ga 10,4a). Hình ảnh này có hai ý :
a- Mục tử đi
trước là để nêu gương cho chiên.
Chính Đức Giêsu đã làm gương cho mọi hoạt động của Hội Thánh, nên ông Luca khi viết
lịch sử Hội Thánh (sách Công vụ), ông mở
đầu bằng câu : “Đức Giêsu làm rồi mới dạy” (Cv 1,1).
b- Mục tử đi
trước để che chở chiên khỏi bị thú dữ vồ. Mục tử đàn chiên không phải là kẻ chăn bò, chăn trâu, vì người chăn đi
sau trâu bò dùng roi quật vào chúng để bắt chúng đi.
Ông Đavid, dù chỉ là
cậu bé chăn chiên nhưng đã trở nên thủ lãnh dân Do Thái, vì khi đoàn quân Do Thái
ra nghênh chiến với quân Philitinh có Golyat, tướng mạo oai phong lẫm liệt dẫn
đầu. Ông Đavid chạy về phía đầu đoàn quân Do Thái để chiến đấu với đối phương,
Golyat thì cao lớn với áo giáp và gươm sắc, làm sao Đavid dám đọ sức, vì Đavid
chỉ có chiếc nỏ với năm viên sỏi. Nhưng ông đã thách thức Golyat, vì tin tưởng
vào Chúa như lời ông nói : “Mày đánh tao
bằng gươm với giáo và đao phóng, phần tao, tao đến đánh mày với danh Thiên Chúa
các cơ binh” (1Sm 17,45).
Hai thánh Tông Đồ Phaolô
và Barnaba trên đường truyền giáo cũng can đảm như ông Đavid, nên dù hai ông bị
những người Do Thái ngược đãi, cũng không làm cho các ông thối chí trên đường
phục vụ Tin Mừng (x Cv 13, 14.43-52 : Bài đọc I).
3/ Người mục tử của Chúa Giêsu phó thác công
việc phục vụ trong tay và cầu nguyện cho mọi người. Cụ thể hai ông Phaolô
và Barnaba khi bị dân Do Thái chống đối không nghe các ngài giảng để tin vào
Chúa Giêsu, thì các ông quay sang dân ngoại, làm dân ngoại hết sức vui mừng, vì
tất cả những người này cũng được Thiên Chúa ban cho hưởng sự sống đời đời. Trái
lại người Do-thái xách động nhóm phụ nữ
thượng lưu đã theo đạo Do Thái và những thân hào trong thành xúi giục họ trục
xuất Phaolô và Barnaba ra khỏi lãnh thổ của họ. Hai ông liền rũ bụi chân phản
đối, rồi đi tới Ikonium, lòng các ông đầy tràn hoan lạc và Thánh Thần. (x Cv 13,48-52 : Bài đọc I).
Việc các Tông Đồ rũ
bụi chân ra đi, là hình ảnh những người Do Thái sau khi rời vùng đất dân ngoại
trở về quê hương, họ làm cử chỉ này để minh xác rằng : dù họ tới vùng dân ngoại,
nhưng không nhiễm lây thờ tà thần như dân ngoại, thậm chí bụi không để bám vào
chân ! Như vậy hai ông Phaolo và Barnaba rũ bụi chân trước mặt người Do Thái chống
đối Tin Mừng, là các ông cảnh cáo họ có lối sống như dân ngoại. Mà dân ngoại
lại được Đức Giêsu quan tâm, hay lui tới, dù Luật không cho phép (x Mt 4, 15 ;
8, 5t ; 15, 21t)
Một anh Công Giáo mồ
côi cha mẹ từ bé, anh không có nơi nương tựa. Nhiều lúc quá đói anh phải ăn cắp
vặt để sống qua ngày ! Nhưng nhiều phen anh bị công an bắt được, anh ra tù vào
khám như cơm bữa. Vào trại tù gặp những tay giang hồ khét tiếng dạy anh nhiều
mánh khóe lưu manh hơn. May có lần anh được ở chung với một số tù nhân chính
trị, họ là những người có ý chí và giàu nghị lực, họ đã dạy anh phải cố gắng
vươn lên bằng đôi tay với sức mình mà sống, chứ đừng sống nhờ vào của ăn ắp.
Sau khi mãn hạn tù,
anh trở về đi làm phụ hồ, dù lương ít nhưng cũng đủ sống qua ngày, và đã từ bỏ nếp sống cũ. Anh thuê một
phòng trọ, ngày kia anh gặp một người bạn đạo Phật từ quê lên tỉnh cũng
làm nghề phụ hồ như anh, thế là hai anh
trở nên bạn bè thân thiết. Ngày kia, chủ nhà kêu mất đồ, họ đi báo công an, và
công an ập tới phòng hai anh khám xét, và
họ đã tìm được tang vật trong
rương của anh Phật Giáo. Công an liền lập biên bản. Anh Công Giáo biết chắc
rằng bạn mình sẽ vào tù, mà vào tù thì học nhiều thói xấu hơn trước, anh đã có
kinh nghiệm này, nên không muốn để bạn mình vào tù. Lúc đó anh rỉ tai người bạn
Phật Giáo : “Tôi sẽ nhận tội thế cho anh,
với điều kiện từ nay anh phải từ bỏ hẳn thói ăn cắp”.Thế rồi, anh nói với
công an : “Chính tôi chủ mưu lấy món đồ
đó và tôi giấu vào rương của bạn tôi”. Thế là anh bị công an còng tay đưa
đi. Khi ra tòa, tòa án đã biết anh này đã từng ra tù vào khám, nên lần này tòa
xử anh nặng hơn những lần trước : 10 năm tù giam ! Anh Phật Giáo thấy bạn quá
tốt, anh vô cùng hối hận, từ bấy giờ anh không bao giờ ăn cắp nữa và tận tâm
làm việc nhiều hơn để kiếm thêm chút tiền thăm nuôi người bạn, nhất là anh đã
xin theo đạo Công Giáo như bạn anh. Thế ra người ta nói : “Cái khó nó ló cái khôn”. Anh Công Giáo mồ côi, qua gian khổ anh lại
trở thành mục tử cho bạn mình được gặp Chúa và sống lương thiện”.
Là
mục tử được Chúa Giêsu chọn, ta hãy noi gương thánh Phaolô khi bị bắt, ông rất
thương những người còn ở lại : "Giờ đây, tôi xin phó thác anh em cho Thiên
Chúa và cho Lời ân sủng của Người, là Lời có sức xây dựng và ban cho anh em
được hưởng phần gia tài cùng với tất cả những người đã được thánh hiến”.
Mọi người ôm lấy ông Phaolô rồi oà lên khóc, vì họ sẽ không còn được nhìn thấy
ông nữa ! (x Cv 20,32t)
THUỘC LÒNG.
Tôi phải sống đạo sao cho lương dân níu lấy
áo tôi mà nói : Chúng tôi muốn đi theo
anh, vì chúng tôi đã nghe biết rằng Thiên Chúa ở với anh! (Dcr 8,23).
http://phaolomoi.net
LM. GIUSE ĐINH QUANG THỊNH