BÀI ĐỌC 1 VÀ 2 (NẾU CÓ)
Normal
0
false
false
false
MicrosoftInternetExplorer4
BÀI ĐỌC : 1Sm 1,1-8
1 Có một người quê thành
Ra-ma-tha-gim Xô-phim, thuộc miền núi Ép-ra-im, tên là En-ca-na, con ông
Giơ-rô-kham; ông Giơ-rô-kham là con ông Ê-li-hu, ông Ê-li-hu là con ông Tô-khu,
ông Tô-khu là con ông Xúp, người Ép-ra-tha.2 Người ấy có hai vợ, một
bà tên là An-na, một bà tên là Pơ-nin-na. Bà Pơ-nin-na có con, còn bà An-na
không có con.3 Hằng năm, người ấy từ thành mình lên thờ lạy và dâng
hy lễ cho Đức Chúa các đạo binh tại Si-lô. Ở đó có hai con trai ông Ê-li là
Khóp-ni và Pin-khát làm tư tế của Đức Chúa.
4
Đến ngày ông En-ca-na dâng hy lễ, ông thường chia các phần cho bà Pơ-nin-na, vợ
ông, và cho các con trai con gái bà ấy.5 Còn bà An-na, thì ông chia
cho một phần ngon, vì ông yêu bà, mặc dù Đức Chúa đã làm cho bà không sinh sản
được.6 Bà kia, đối thủ của bà, cứ chọc tức bà, để hạ nhục bà, vì Đức
Chúa đã làm cho bà không sinh sản được.7 Ông vẫn làm như thế năm này
qua năm nọ, mỗi lần bà lên Nhà của Đức Chúa ; còn bà kia cứ chọc tức bà như
thế. Bà khóc và không chịu ăn.8 Ông En-ca-na, chồng bà, bảo bà:
"An-na, sao em khóc? Sao em không chịu ăn? Sao lòng em rầu rĩ vậy? Đối với
em, anh lại không hơn mười đứa con trai sao?"
ĐÁP CA : Tv 115
Đ. Lạy Chúa, con sẽ dâng lễ tế tạ ơn Ngài. (c
17a)
12 Biết lấy chi đền đáp Chúa
bây giờ vì mọi ơn lành Người đã ban cho? 13 Tôi xin nâng chén mừng
ơn cứu độ và kêu cầu thánh danh Đức Chúa .
16 Vâng lạy Chúa, thân này là
tôi tớ, tôi tớ Ngài, con của nữ tỳ Ngài, xiềng xích trói buộc con, Ngài đã tháo
cởi. 17 Con sẽ dâng lễ tế tạ
ơn, và kêu cầu thánh danh Đức Chúa.
18 Lời khấn nguyền với Chúa,
tôi xin giữ trọn, trước toàn thể dân Người, 19 tại khuôn viên đền Chúa,
giữa lòng ngươi, hỡi Giê-ru-sa-lem!
BÀI GIẢNG
Normal
0
false
false
false
MicrosoftInternetExplorer4
HIỀN THÊ
CỦA ĐỨC KITÔ PHẢI “ĐẺ”
(x Mk 1,2)
Khát
vọng sinh con của một phụ nữ có chồng là bản năng của họ, cụ thể như bà Anna,
dù được chồng là ông Encana yêu bà hơn người vợ thứ của ông là bà Pơninna, dù
bà này được Chúa cho sinh con, còn bà Anna thì vẫn son sẻ. Thế nên lúc nào bà
Anna cũng khóc, không chịu ăn uống, đến nỗi ông chồng phải dỗ ngọt: “Anna, sao em khóc? Sao em không chịu ăn? Sao
lòng em rầu rĩ vậy? Vì đối với em, anh lại không hơn mười đứa con trai hay sao?”
(1Sm 1,8 : Bài đọc năm chẵn).
Ngày
hôm qua, chúng ta mới mừng lễ Chúa Giêsu Chịu Phép Rửa, nhắc cho ta trong Bí
Tích Thánh Tẩy, ta đã được trở nên Hiền Thê của Chúa Kitô (x 2Cr 11,2).Thì khát
vọng sự sống của người Kitô hữu cũng phải sinh con cho Thiên Chúa hơn nhu cầu
của bà Anna.
Để
xứng đáng là Hiền Thê của Chúa Kitô “đẻ” con cho Ngài, ta phải ý thức sống ba
điều sau :
- Vượt qua mọi rào cản
loan báo Lời Chúa để diễn tả sức bật của Tin Mừng.
- Đón nhận Tin Mừng do
Hội Thánh rao giảng, là được trực tiếp gặp Chúa Giêsu.
- Ai thuộc về Chúa Kitô,
phải quy tụ muôn dân về cho Chúa để họ được giải phóng.
***
1/ VƯỢT QUA MỌI RÀO CẢN LOAN BÁO LỜI CHÚA ĐỂ DIỄN TẢ
SỨC BẬT CỦA TIN MỪNG.
Thánh
sử Marco ghi : “Sau khi ông Gioan bị nộp, Đức Giêsu đến miền Galilê rao giảng Tin Mừng
của Thiên Chúa” (Mc 1,14 : Tin Mừng).
Động
từ nộp được dùng ở đây nhằm nói về
cái chết của ông Gioan Tẩy Giả bị vua Hêrôđê cắt đầu, vì ông này rất can đảm
ngăn cản vua Hêrôđê không được cướp vợ anh mình! (x Mc 6,17t). Cái chết của
Gioan Tẩy Giả đã trở thành biến cố tiên tri cho mọi người biết Đức Giêsu cũng
như các môn đệ của Ngài đều phải chết vì chân lý.
Thực
vậy, ba lần Đức Giêsu báo trước cái chết của Ngài cho các môn đệ, Ngài cũng
dùng động từ nộp :
-
Con Người sẽ bị nộp cho người đời (x Mc 8,31).
-
Con Người bị nộp cho các thượng tế và ký lục (x Mc
10,33).
-
Giuđa, môn đệ phản
Thầy, cũng nộp Thầy cho dân ngoại
với giá 30$. Đó là giá mua một nô lệ (x Mc 14,21).
Vậy
mà khi Đức Giêsu vừa nghe tin ông Gioan Bt đã bị giết chết vì bảo vệ chân lý, vì không muốn ai phạm tội. Sự cố kinh hoàng
ấy đã không làm cho Đức Giêsu run sợ chạy trốn ; trái lại Ngài đến miền Galilê
bắt đầu giảng Tin Mừng. Hành động đó như một người nhảy vào cuộc chiến, bởi vì
miền Galilê đang đặt dưới quyền cai trị của Hêrôđê Antipa, một kẻ rất độc ác,
ông này là em của vua Hêrôđê Ankêlaus. Ông Ankêlaus được đế quốc Roma đặt cai
trị miền trung Samari và miền nam Giuđêa nước Do Thái vào năm thứ 4 trước Công nguyên, đến năm thứ 6 sau
Công nguyên, ông bị Roma truất chức và trao quyền cho Philatô làm tổng trấn. Mà
ta biết ông Philatô không phải là kẻ ác như Hêrôđê Antipa, bằng chứng là trong
cuộc xử án Đức Giêsu,ông chỉ muốn tha,ông biết những đầu mục Do Thái chỉ vì
ghen tức mà nộp Ngài cho ông (x Ga 19). Thế mà khi Đức Giêsu nghe tin ông Gioan
Bt mới bị Hêrôđê Antipa cắt đầu, Ngài không lui về miền Nam dưới quyền Philatô
để giảng dạy, mà Ngài lại can đảm lên miền bắc Galilê. Điều này tác giả Tin
Mừng Marcô xác quyết cho chúng ta rằng : Ông Gioan chỉ là “cây đèn cháy sáng” (x Ga
5,35), cây đèn đã bị người ta thổi tắt, thì Đức Giêsu là “Mặt Trời Công Chính”, tất
yếu ló rạng chiếu sáng (x Lc 1,78). Đức Giêsu vốn dĩ là Thiên Chúa toàn năng,
thế mà Ngài cũng bị giết vì hết lòng loan báo Lời Cha để đưa loài người vào
đường sự thật dẫn đến sự sống! Sau cái chết của Đức Giêsu,các Tông Đồ cũng vì
nhiệt tình rao giảng Tin Mừng mà phải ra tù vào khám như cơm bữa, mà các ông
vẫn không sợ! (x Cv 4,1-22). Đặc biệt ông Saulô, kẻ chỉ tôn thờ Thiên Chúa qua
Luật Môsê chứ không theo Giáo Lý của các Tông Đồ, nên ông đã tỏ ra hung ác ôm
áo động viên nhiều người ném đá Stêphanô đến chết, rồi sau đó ông còn xông vào
các tư gia bắt được ai theo đạo Chúa, là ông xiềng xích đưa về Giêrusalem (x Cv
7.8.9), nhưng nhờ lời cầu nguyện của Stêphanô, ông Saulô đã trở nên Tông Đồ
Phaolô xuất sắc của Chúa Giêsu, mà hơn 20 thế kỷ nay chưa ai sánh bằng (x 2Cr
11,5).
Những
chứng từ trên đây đã nói lên sức bật của
Tin Mừng như một lò xo, càng bị nén, sức bật càng mạnh. Bởi vì có nhờ Tin
Mừng mới làm cho con người được giải phóng cả hồn lẫn xác, và được chan chứa
niềm vui, đến nỗi tử thần không cướp mất sự sống hạnh phúc của họ. Bởi thế “kẻ nào sợ chết, suốt đời làm nô lệ” (Dt
2,15), và “lòng mến trọn hảo thì xua đuổi
sợ hãi ra ngoài,vì sợ hãi có liên quan đến hình phạt” (1Ga 4,18).
Vậy
sức bật của Tin Mừng làm cho những Hiền Thê trung tín của Đức Kitô, họ giống
như thác nước đổ xuống (người Kitô hữu bị bách hại), nó vẫn tiếp tục chảy, nếu
gặp khối đá chặn, nước tụ lại dâng lên vượt chướng ngại chảy tiếp ; hoặc người
Kitô hữu nhiệt tình sống Tin Mừng cũng giống như cây lúa xạ, nước lũ càng dâng
lên, lúa càng trồi cao, nước lũ dù mạnh cũng không vùi dập được cây lúa xạ yếu
ớt ! Đúng như Lời Kinh Thánh nói : “Dân Chúa càng bị hành hạ, họ càng thêm đông
đúc và lan tràn khắp nơi, khiến những kẻ đã gây ra tai họa, phải khiếp sợ”
(Xh 1,12).
2/ ĐÓN NHẬN TIN MỪNG DO HỘI THÁNH RAO GIẢNG, LÀ ĐƯỢC
TRỰC TIẾP GẶP CHÚA GIÊSU.
Trong
thư Do Thái (1, 1-6 ; Bài đọc năm lẻ), đã xác tín cho chúng ta : Mỗi khi ta
tham dự Phụng Vụ, đặc biệt là dự Lễ, ta được “trực tiếp nghe Chúa Giêsu giảng
dạy, người giảng chỉ là cái loa Chúa dùng.Chúa Giêsu là Đấng dùng Lời quyền
năng của mình mà duy trì vạn vật. Bởi vì chính Ngài đã dựng nên vũ trụ. Thì
chắc chắn các phép lạ Đức Giêsu làm mà tác giả Marco ghi lại chỉ là hình bóng
ơn cứu độ vô cùng phong phú, Chúa ban cho những ai có tấm lòng biết nghe và đem
ra thực hành rồi loan báo cho đồng loại.
Đó là lý do khi Đức Giêsu bắt đầu thi hành sứ mệnh
ngôn sứ, Ngài lên tiếng kêu gọi mọi người : “Hãy sám hối và tin vào Tin Mừng” (Mc 1,15 : Tung Hô Tin Mừng). Đúng
lý ra Ngài phải kêu gọi mọi người : “Hãy
tin vào tôi là Đấng Cứu Độ như các ngôn sứ đã loan báo trước”. Nhưng Tin
Mừng còn là Cơ Thể thứ hai của Chúa Kitô, âm thầm và dễ dàng len lỏi vào hết
mọi tâm hồn con người ; còn nếu Ngài nói : “Tin
vào tôi”, thì lúc ấy chỉ có một số người đồng thời với Ngài được biết ;
ngày nay, chỉ có những người Công Giáo được rước Lễ mới có quyền gặp Chúa Giêsu
Phục Sinh trong Bí tích ThánhThể mà thôi. Nhưng “tin vào Tin Mừng” thì bất cứ loại người nào cũng đón nhận được.
Vì Tin Mừng là Cơ Thể thứ hai của Chúa Giêsu,nên giáo
huấn của Hội Thánh trong Hiến Chế Mạc Khải số 21 dạy: “Phải tôn kính Thánh Kinh như
chính Thân Thể Chúa Kitô, đặc biệt là Lời Chúa trong Phụng Vụ”, vì “Chúa Giêsu hiện diện cách thiết thực khi
chúng ta đọc Thánh Kinh trong Hội Thánh, nhất là trong Phụng Vụ” (Hiến Chế
Phụng Vụ số 7).
3/ AI THUỘC VỀ CHÚA KITÔ, PHẢI QUY TỤ MUÔN DÂN VỀ CHO
CHÚA ĐỂ HỌ ĐƯỢC GIẢI PHÓNG.
Nhìn
vào cơ cấu của Tin Mừng Marco trong chương 1 : Sau khi Đức Giêsu thắng Satan :
“Ngài ở giữa các dã thú, chúng không làm
hại được Ngài, và các Thiên thần đến hầu hạ Ngài” (x Mc 1,12-13 : Tin
Mừng). Tin Mừng chiến thắng đó, Đức Giêsu muốn chia sẻ cho cả loài người, vì
loài người đang bị quyền lực sự ác thống trị, cụ thể sau khi vua Hêrôđê cắt đầu
ông Gioan, thì Đức Giêsu lớn tiếng kêu gọi mọi người: “Thời buổi đã mãn, và Nước Thiên Chúa đã gần bên, hãy hối cải và tin vào
Tin Mừng” (Mc 1,15 : Tin Mừng).
Để
làm cho Tin Mừng giải phóng sớm bao trùm tâm hồn mọi người, Đức Giêsu muốn mọi
người phải tiếp tay với Ngài là làm Tông Đồ cho Ngài, khởi đi từ Bí Tích Thánh Tẩy (x Mt 28,18-19), nên Ngài
chọn một số người, Ngài không chọn những người nhàn rỗi, nhưng là những người
đang vất vả làm việc chính đáng để nuôi sống gia đình, phục vụ xã hội, cụ thể
như ông Simon và ông Anrê đang quăng chài bắt cá ; cả hai anh em Giacôbê và
Gioan đang vá lưới, tất cả phải bỏ nghề, bỏ việc đi theo Ngài để “bắt” muôn
người về cho Ngài (x Mc 1,16-20 : Tin Mừng).
Chính
vì vậy mà giáo huấn của Công Đồng Vat.II dạy chúng ta: “Giáo dân có thể và phải có một hoạt động cao quý là truyền bá Tin Mừng
cho thế giới, cả những lúc họ bận tâm lo
lắng việc trần thế” (Hiến Chế Hội Thánh số 35).
Việc
loan báo Tin Mừng đem lại hiệu quả tuyệt vời. Cụ thể :
-
Chỉ cần Lời Chúa được
công bố là thần ô uế bị xua trừ (x Mc 1,23t).
-
Đức Giêsu có mặt tại
nhà mẹ vợ ông Phêrô, Ngài động đến bà, tức khắc cơn sốt nặng biến mất, bà chỗi
dậy phục vụ các Ngài (x Mc 1,29).
-
Thế rồi đủ các bệnh
nhân đến với Ngài,tất cả đều được lành mạnh (x Mc 1,32t).
Đức
Giêsu nói với những người Ngài tuyển chọn : “Các anh hãy theo tôi, tôi sẽ làm cho các anh trở thành ngư phủ đi bắt
người” (Mc 1,17 : Tin Mừng).
Đức
Giêsu hữu ý sử dụng động từ “bắt”,
tiếng Hy Lạp là “zogreo”. Bởi vì ai có quyền bắt, thì người ấy cũng có quyền
tha. Như vậy, các môn đệ của Đức Giêsu
dùng Lời để quy tụ, để “bắt” người ta quay về với Chúa. Ai tin vào
Chúa Giêsu mà biết sám hối và xin theo Ngài, thì các môn đệ có quyền mở cửa
Thiên Đàng cho họ vào, như Lời Chúa Giêsu đã nói với các môn đệ : “Dưới đất, anh em cầm buộc những gì, trên
trời cũng cầm buộc như vậy ; dưới đất, anh em tháo cởi điều gì, trên trời cũng
tháo cởi như vậy” (Mt 18,18).
Vậy khi ta đã ý thức mình là Hiền Thê của Chúa Kitô,
thì ta phải làm ứng nghiệm lời ngôn sứ Mikha 1,2 : “Đến thời “Đẻ” phải sinh con” (Bản dịch Lm Nguyễn Thế Thuấn), không
phải là những người sống bậc gia đình mới đẻ con Thiên Chúa, vì “Người làm cho đàn bà son sẻ thành mẹ đông con vui cửa vui nhà” (Tv 113/112,9). Cũng vì lý do đó mà
Chúa đã dùng miệng ngôn sứ Isaia nói : “Nếu
ngươi chỉ làm tôi trung của Ta, để tái lập các chi họ Giacob, để dẫn đưa những
người Israel sống sót (sau lưu đày) trở về, thì vẫn còn quá ít, vậy Ta đặt ngươi làm ánh sáng muôn dân, đem ơn cứu độ
của Ta đến tận cùng trái đất” (Is 49,6). Có như thế ta mới “làm người phục vụ Đức Giêsu Kitô giữa các
dân ngoại, lo việc tế tự là rao giảng Tin Mừng của Thiên Chúa, để các dân ngoại
được Thánh Thần thánh hóa, mà trở nên một lễ phẩm đẹp lòng Thiên Chúa” (Rm
15,16). Bởi vì ta đã cất lời kêu gọi : “Chư thần chư thánh phục bái Chúa đi” (Tv 97/96, 7c : Đáp ca năm lẻ),
và thưa cùng Chúa rằng : “Lạy Chúa, con
sẽ dâng lễ tế tạ ơn Ngài” (Tv 116/115,17a : Đáp ca năm chẵn).
THUỘC LÒNG
Đức
Giêsu nói : “Mẹ và anh em Ta là những người nghe và làm theo Lời Thiên Chúa”
(Lc 8,21).
http://phaolomoi.net
Lm GIUSE
ĐINH QUANG THỊNH