BÀI ĐỌC 1 VÀ 2 (NẾU CÓ)
BÀI ĐỌC I: Kn 3,1-9
1
Linh hồn người công chính ở trong tay Thiên Chúa và chẳng cực hình nào động tới
được nữa. 2 Bọn ngu si coi họ như đã chết rồi ; khi họ ra đi, chúng
cho là họ gặp phải điều vô phúc. 3 Lúc họ xa rời chúng ta, chúng
tưởng là họ bị tiêu diệt, nhưng thực ra, họ đang hưởng an bình. 4
Người đời nghĩ rằng họ đã bị trừng phạt, nhưng họ vẫn chứa chan hy vọng được
trường sinh bất tử. 5 Sau khi chịu sửa dạy đôi chút, họ sẽ được
hưởng ân huệ lớn lao. Quả thế, Thiên Chúa đã thử thách họ và thấy họ xứng đáng
với Người. 6 Người đã tinh luyện họ như người ta luyện vàng trong lò lửa, và
đón nhận họ như của lễ toàn thiêu. 7 Khi đến giờ được Thiên Chúa
viếng thăm, họ sẽ rực sáng như tia lửa bén nhanh khắp rừng sậy. 8 Họ
sẽ xét xử muôn dân, và thống trị muôn nước. Và Đức Chúa sẽ là vua của họ đến
muôn đời. 9 Những ai trông cậy vào Người, sẽ am tường sự thật ; những ai trung thành, sẽ được Người yêu thương và cho ở gần Người, vì Người ban
ân phúc và xót thương những ai Người tuyển chọn.
ĐÁP CA : Tv
125
Đ. 5
Ai nghẹn ngào ra đi gieo giống,
mùa gặt
mai sau khấp khởi mừng.
1 Khi
Chúa dẫn tù nhân Xi-on trở về, ta tưởng mình như giữa giấc mơ.2ab
Vang vang ngoài miệng câu cười nói, rộn rã trên môi khúc nhạc mừng.
2cd Bấy
giờ trong dân ngoại, người ta bàn tán: "Việc Chúa làm cho họ, vĩ đại
thay!" 3 Việc Chúa làm cho ta, ôi vĩ đại! ta thấy mình chan chứa một niềm vui.
4 Lạy Chúa,
xin dẫn tù nhân chúng con về, như mưa dẫn nước về suối cạn miền Nam.5
Ai nghẹn ngào ra đi gieo giống, mùa gặt mai sau khấp khởi mừng.
6 Họ ra
đi, đi mà nức nở, mang hạt giống vãi gieo; lúc trở về, về reo hớn hở, vai nặng
gánh lúa vàng.
BÀI ĐỌC II : 1Cr 1,17-25
Anh
em thân mến,17 Đức Ki-tô đã chẳng sai tôi đi làm phép rửa, nhưng sai
tôi đi rao giảng Tin Mừng, và rao giảng không phải bằng lời lẽ khôn khéo, để
thập giá Đức Ki-tô khỏi trở nên vô hiệu.18 Thật thế, lời rao giảng
về thập giá là một sự điên rồ đối với những kẻ đang trên đà hư mất, nhưng đối
với chúng ta là những người được cứu độ, thì đó lại là sức mạnh của Thiên Chúa.19
Vì có lời chép rằng: Ta sẽ huỷ diệt sự khôn ngoan của kẻ khôn ngoan, và sẽ vứt
bỏ sự thông thái của người thông thái.20 Người khôn ngoan đâu? Người
học thức đâu? Người lý sự của thời này đâu? Thiên Chúa lại đã không để cho sự
khôn ngoan của thế gian ra điên rồ đó sao?21 Thật vậy, thế gian đã
không dùng sự khôn ngoan mà nhận biết Thiên Chúa ở những nơi Thiên Chúa biểu lộ
sự khôn ngoan của Người. Cho nên Thiên Chúa đã muốn dùng lời rao giảng điên rồ
để cứu những người tin.22 Trong khi người Do-thái đòi hỏi những điềm
thiêng dấu lạ, còn người Hy-lạp tìm kiếm lẽ khôn ngoan,23 thì chúng
tôi lại rao giảng một Đấng Ki-tô bị đóng đinh, điều mà người Do-thái coi là ô
nhục không thể chấp nhận, và dân ngoại cho là điên rồ.24 Nhưng đối
với những ai được Thiên Chúa kêu gọi, dù là Do-thái hay Hy-lạp, Đấng ấy chính
là Đức Ki-tô, sức mạnh và sự khôn ngoan của Thiên Chúa.25 Vì cái
điên rồ của Thiên Chúa còn hơn cái khôn ngoan của loài người, và cái yếu đuối
của Thiên Chúa còn hơn cái mạnh mẽ của loài người.
BÀI GIẢNG
ĐAU KHỔ VÌ CHÚA MỚI SỐNG THẬT
1/ LỊCH SỬ
LỄ CÁC THÁNH TỬ ĐẠO VIỆT NAM.
Ngày
19/06/1988, Đức Gioan Phaolô II đã phong Hiển Thánh cho 117 vị, trong số
130.000 người Tử Đạo tại Việt Nam, gồm có :
8
Giám mục ; 50 Linh mục ; 14 thầy giảng ; 1 chủng sinh, 44 giáo dân. Trong đó có
10 vị người Pháp, 11 vị người Tân Ban Nha, còn lại là người Việt.
Các Thánh
trên đã tử đạo bởi 5 triều đại vua sau đây:
- Trịnh Nguyễn (1745-1773) : 4 vị.
- Cảnh Thịnh (1798) : 2 vị.
- Minh Mạng (1820-1840) : 50 vị.
- Thiệu Trị (1841-1847) : 3 vị.
- Tự Đức (1848-1883) : 58 vị.
Các
ngài chịu đủ mọi cực hình :
- Bá đao (mỗi người bị
cắt 100 miếng thịt) : 1 vị.
- Lăng trì (chặt chân tay
trước khi chém đầu) : 4 vị.
- Thiêu sống : 6 vị.
- Chém đầu : 75 vị.
- Xử giảo (quấn dây vòng
cổ rồi kéo hai đầu cho đến chết : 22 vị.
- Rũ tù : 9 vị.
- Người cao tuổi nhất như
cha Loan 84 tuổi ; trẻ nhất như Tôma Thiện 18 tuổi. Trong số 117 vị Tử Đạo chỉ
có một phụ nữ là bà Anê Lê Thị Thành (thánh Đê.)
Các vị trên đủ mọi thành phần trong đạo-đời, quan có,
lính có, dân có ; nhưng đa số là giáo sĩ
trong Hội Thánh : Giám mục, Linh mục, chủng sinh. Số người trẻ từ 18 đến 40
tuổi chiếm 1/3 trong 117 vị Tử Đạo.
Ngày 15/10/1989, Hội Đồng Giám mục Việt Nam xin Tòa
Thánh ghi vào lịch Phụng Vụ thế giới ngày 24/11 là ngày kính các thánh Tử Đạo,
và được Bộ Phượng Tự chấp thuận ngày 14-02-1990.
2/ GIÁO
HUẤN.
Bài
đọc I, sách Khôn ngoan dạy : muốn biết vàng thật hay giả phải thử trong lửa –
Muốn biết đức độ của một người phải qua gian nan thử thách.
Bài
đọc II, thánh Phaolô trong thư I gởi cho tín hữu ở Côrintô dạy rằng : Người tin
Chúa giới thiệu Thiên Chúa là Đấng Toàn Năng khi họ để cho Thiên Chúa hành động
trên con người họ
- Yếu thành mạnh.
- Khổ nên vinh quang.
- Chết được sống lại.
Bài Tin Mừng, tác giả Luca ghi nhận :
* Câu 23 : Thập giá (đau khổ) người Kitô hữu
vác hằng ngày theo Chúa chính là những trái ý phải khắc phục, chịu đựng, tha
thứ. Ví dụ :
Người ta hiểu lầm mình, rơi vào hoàn cảnh nghèo khổ,
bệnh tật, đủ thứ khổ trong đời phải chịu, nhất là khổ vì điều tốt muốn làm mà
không làm được, cứ hướng chiều về điều xấu mình không thích !
* Câu 24 : Khổ vì tìm cách cứu mình, Chúa đã
không giúp lại còn đòi ta phải mất mạng sống vì Chúa, rồi Ngài mới cứu sống
cho! Nhưng sống chưa thấy, thấy chết trước mắt !
* Câu 25 : Khổ vì Chúa bảo được lời cả thế gian
mà lại mất mạng sống mình là dại ! Còn ta sống Đạo, chưa dám mơ được cả thế
gian, mà ngay đến sự sống riêng mình muốn giữ xem ra cũng không giữ được.
* Câu 26 : Khổ vì rao giảng về Chúa không được
người đời chấp nhận, cảm thấy xấu hổ muốn câm miệng cho yên thân, thì lại bị
Chúa răn đe : “Ai hổ thẹn chối Ta,Ta sẽ hổ thẹn chối nó trước mặt Cha Ta
!”
* Câu 27 : Khổ vì Chúa hứa có người không nếm
biết cái chết trước khi thấy Nước Thiên Chúa. Biết bao người hằng ngày thiết
tha cầu khẩn “Maranatha” : xin Chúa mau đến cứu chúng con (x 1Cr 16,22 ; Kh
22,20), mà chẳng thấy gì, chỉ toàn thấy sự ác ập đến !
NHƯNG CỨ
PHẢI TIN !
* Câu 27 : Khổ vì Chúa là ơn Chúa ban. Như khi
Đức Giêsu sống lại là dấu “Nước Thiên Chúa đến” các Tông Đồ phải gặp gian nan
thử thách khi rao giảng Tin Mừng, mà đâu có chết sớm! Còn tên Giuđa tham tiền
đã chết trước khi thấy “Nước Thiên Chúa đến”.
* Câu 26 : Tin trong lòng thì được công chính,
tuyên xưng ngoài miệng mới được cứu độ (x Rm 10,10). Do đó không hổ thẹn vì
loan báo Lời Chúa.
* Câu 25 : Làm cho một người được Chúa cứu độ
còn hơn giá trị cả vũ trụ cộng lại.
* Câu 24 : Đi đường của Chúa dù có khổ thì vẫn
còn hơn đi theo ý riêng mình cũng chẳng tránh được đau khổ! Vì đau khổ có Chúa
mới đạt được vinh quang,còn không có Chúa là dấu bị khổ đời đời !
* Câu 23 : Có vác thập giá hằng ngày theo Chúa
cũng chưa đến nỗi phải đổ máu ra mà chống trả vì tội mình đâu! (x Dt 12,4)
“Lên tiếng với anh em để hô vang Chúa Kitô Tử Nạn
Thập Giá, tất cả chúng tôi hôm nay để lời cám ơn anh em vì tấm gương nhân chứng
đặc biệt các vị thánh Tử Đạo của Giáo Hội Việt Nam anh em đã nêu cao, bất cứ
các ngài là con dân Việt Nam hay là những Thừa sai, xuất xứ từ những nước đã in
sâu mầm mống đức tin Chúa Kitô.
Làm sao kể lại cho hết ? Tất cả là 117 vị Tử Đạo,
trong số có 8 vị Giám mục, 50 vị Linh mục, 59 giáo dân, trong số đó có một phụ
nữ là thánh Anê Lê Thị Thành, mẹ của sáu người con.
Truyền thống còn ghi nhớ lịch sử chết vì đạo của Giáo
Hội Việt Nam
rất bao quát, phức tạp ngay từ lúc ban đầu. Từ năm 1533, nghĩa là từ lúc miền
Đông Nam Á Châu vừa được truyền Đạo, Giáo Hội Việt Nam đã chịu bách hại suốt ba
thế kỷ, trừ một vài năm cách quãng, giống hệt ba thế kỷ bắt bớ của Giáo Hội Âu
Châu thời xưa. Từng ngàn vạn giáo dân tử Đạo, từng trăm số người đã chết lưu
lạc trên núi, trong rừng sâu nước độc !
Để lấu một ví dụ : Trong các vị Tử Đạo hôm nay, đi
tiên phong có thánh Vinhsơn Liêm, dòng Đaminh là người Việt tử đạo đầu tiên năm
1773. rồi tới Linh mục Anrê Dũng Lạc, sinh trưởng trong một gia đình rất nghèo
khó, bên lương, từ nhỏ đã phải “bán” cho một thầy giảng dạy giáo lý, nhưng rồi
Chúa cũng cho tới chức Linh mục năm 1823, được bổ nhiệm chánh xứ và đương nhiên
thành nhà truyền giáo trong nhiều địa hạt.
Nhiều lần đã bị lao tù, nhưng vẫn được giáo dân tốt
lành đem tiền chuộc về, trong khi bản thân ngài mong chờ được chết vì Chúa.
“Những người chết vì đức tin, ngài nói – thì lên Thiên đàng thẳng rằng ; tại
sao chúng ta cứ phải ẩn náu, phải tốn tiến đút lót cho quan quyền ; thà để cho
chúng tôi bị bắt và rồi tử Đạo cho phải hơn không ?” Thực ra vẫn một ý chí hăng
say và được ơn Chúa nâng đỡ, ngài đã anh dũng chịu trảm quyết tại Hà Nội ngày
21/12/1839.
Một lần nữa, hỡi Giáo đoàn Việt Nam, chúng tôi nói lại cho anh em
rằng : máu các thánh Tử Đạo là nguồn ân sủng cho anh em trước tiên, để anh em
thăng tiến trong đức tin. Giữa anh em, đức tin của tổ tiên vẫn tiếp tục và còn
truyền tụng sang nhiều thế hệ tương lai.
Đức tin này tồn tại để làm nền tảng xây dựng sự kiên
trì cho tất cả những người là Việt Nam thuần túy sẽ trung thành với
quê hương đất nước, nhưng đồng thời vẫn còn là người tín hữu của Chúa Kitô.
Ai là người tín hữu đều ý thức rằng: Lời kêu gọi của
Phúc Âm vẫn là phải tuân phục các thể chế loài người, để tôn thờ tình yêu Thiên
Chúa bằng cách làm việc thiện, sống xứng đáng con người tự do, kiêng nể tha
nhân, yêu thương anh em, kính sợ Thiên Chúa và tôn trọng công quyền và thể chế
quốc gia (x 1Pr 2,13-17).
Do đó công ích của quốc gia vẫn là thời điểm người
công dân phải dấn thân, nhưng đồng thời phải được tự do tuyên xưng Chân Lý của
Chúa, được cảm thông với các vị chủ chăn và anh em đồng tín ngưỡng : và như thế
là để sống an bình với mọi người và thực tâm xây dựng hạnh phúc cho toàn dân”.
(Trích Thiên Hùng Sử tr 20-25)
THUỘC LÒNG.
Ngoài Chúa Kitô chịu đóng đinh,
tôi không muốn biết điều gì khác (1Cr 2,2).
http://phaolomoi.net
Lm Giuse
Đinh Quang Thịnh