BÀI GIẢNG
KHIÊM NHƯỜNG
CHIẾC THANG LEO LÊN
DANH VỌNG!
Để hiểu
được nhân đức khiêm nhường đúng ý Chúa, ta phải dựa vào tinh thần phục vụ của
Chúa Giêsu trong bữa tiệc ly (x Ga 13) ; tâm tình tạ ơn Chúa của Đức Maria (x
Lc 1,46-55) và lòng sám hối tội xin Chúa thương xót của người thu thuế (x Lc
18,13t). Từ đó ta xác tín rằng : khiêm
nhường là nhận biết mình chỉ là số 0 trước mặt Chúa, như Mẹ Maria xác nhận mình
chỉ là tôi tớ Chúa. mà thân phận đầy tớ thì phải tuyệt đối vâng lời chủ. Nhất
là còn phải biết mình đang mang đầy tội lỗi, không xứng đáng được gọi là đầy tớ
của Chúa nữa, chỉ trông cậy vào lòng Chúa thương xót, và nếu nhận biết mình có
điều gì tốt, thì đó là ơn Chúa ban để phục vụ theo gương Chúa Giêsu. Nói tóm
lại : Khiêm nhường là nhận sự thật về
mình đang có, và tạ ơn Chúa về những điều tốt lành Ngài đã ban để phục vụ đồng
loại đúng ý Chúa.
Lời Chúa trong Thánh Lễ hôm nay dạy ta chỉ cần đi ba
bước là đạt đức khiêm nhường mới có danh vọng thật.
- Hãy
lo luyện tài, tích đức cho mình.
- Phải
phục vụ như Chúa Giêsu.
- Phải
phục vụ đúng chức năng Chúa Thánh Thần đã phân định.
1- HÃY LO LUYỆN TÀI, TÍCH ĐỨC CHO
MÌNH.
Chúa
Giêsu dạy : “Khi dự tiệc, chớ leo lên chỗ nhất, kẻo bị chủ bảo đi xuống chỗ
cuối để nhường chỗ cho khách đựơc chủ mời lên, bấy giờ ngươi phải xấu hổ!”
(Lc 14, 8 : Tin Mừng).
Tâm
lý người đời, ai cũng mong mình được người khác tôn trọng, kính nể, nhất là lúc
có mặt trong bữa tiệc, lại càng muốn chủ tiệc giới thiệu với khách về địa vị
thân thế của mình, và được mời lên ngồi nơi bàn danh dự. Nhưng Chúa Giêsu thì
lại muốn mọi người : Đừng lo người khác không biết đến tài đức của mình, một
hãy lo cho mình có tài có đức thật. Vì Ngài đã dạy : “Không ai thắp
đèn để đặt dưới gầm giường, hay lấy thùng úp lại ; nhưng, đèn sáng phải được
đặt trên giá cao để soi sáng cho mọi người trong nhà. Cũng vậy, ánh sáng của
các ngươi phải chói lọi trước mặt người đời, ngõ hầu họ thấy việc lành của các
ngươi mà tôn vinh Cha các ngươi, Đấng ngự trên trời” (Mt 5,14-16). Bởi thế
Lời Thánh Kinh dạy : “Hãy để kẻ khác khen
con, chớ không phải miệng con, một người xa lạ, chớ không phải môi con” (Cn
27,2).
Truyện
kể rằng : Một tu sĩ kia vốn được nhiều người kính nể, lại bị cô gái cuồng dâm
tìm mọi cách chiếm đoạt! Sau khi cô đã dùng mọi mưu kế nhưng đều thất bại, thì
cô lại đi cặp bồ với một anh chàng đã có gia đình. Hậu quả cô mang bầu, cô sợ
bị tạt acid nếu vợ chàng biết, nên cô gán cái bầu đang mang cho tu sĩ để trả
thù! Thế là cả làng kéo nhau đến rủa, nhưng tu sĩ ấy chỉ trả lời : “Thế hả!”
Người
ta định lôi tu sĩ ấy ra tòa để lột áo dòng, thì anh chàng tác giả cái bào thai
của cô gái bị lương tâm cắn rứt, chàng biết tu sĩ ấy rất thánh thiện, đầy nhân
đức, không muốn thầy bị vu oan, nên anh đã thú nhận với vợ và mọi người :
“Chính tôi là thủ phạm vụ việc này”. Thế là những kẻ đã từng sỉ nhục tu sĩ đều
phải đấm ngực hối hận và thốt lên : “À ra thế!” Họ lại kéo nhau đến xin lỗi tu
sĩ, thầy cũng chỉ trả lời : “Thế hả !” Cách cư xử của tu sĩ này thật đúng với
lời thánh Augustin nói : “Ở đâu có khiêm nhường, ở đó có bác ái”.
2- PHẢI PHỤC VỤ NHƯ CHÚA GIÊSU.
Chúa
Giêsu dạy : “Khi dự tiệc cưới, hãy chọn chỗ cuối” (Lc 14,10a : Tin
Mừng). Ta hãy nhìn Chúa Giêsu đã diễn tả lời giáo huấn trên trong bữa tiệc ly :
Ngài vốn dĩ là Thiên Chúa mà không giành cho đựơc chức vị đồng hàng cùng Thiên
Chúa, Ngài đã tự hạ mình ra không, là lĩnh lấy thân phận tôi đòi, tự thắt lưng
lấy nước rửa chân cho các môn đệ – đây là việc làm của kẻ nô lệ, và của dân
ngoại – thế mà Đức Giêsu vừa là Chúa vừa là Thầy, là người Do Thái, lại trở nên
người hèn hạ nhất trong bữa tiệc. Hơn thế nữa, Ngài đã bằng lòng phục vụ theo
lệnh Chúa Cha cho đến chết cách nghiệt ngã trên thập giá. Nhưng chỉ sau ba
ngày, Ngài sống lại và được Chúa Cha tôn vinh, khiến cho mọi đầu gối quỳ phải
bái thờ, và mọi miệng lưỡi đều tuyên xưng : “Giêsu Kitô là Chúa”
(x Pl 2, 6-11). Vậy càng làm lớn, càng phải hạ mình xuống phục vụ để tỏ lòng
yêu thương đồng loại, như thánh Phêrô đã khuyên các mục tử trong Hội Thánh : “Đừng lấy quyền mà thống trị những người
Thiên Chúa đã giao phó cho anh em, nhưng hãy nêu gương sáng cho đoàn chiên.”
(1Pr 5,3). Nhất là phục vụ nhằm hướng lòng người anh em về Thiên Chúa, muốn gia
nhập Hội Thánh, khao khát được tham dự Thánh Lễ, như Chúa Giêsu khi Ngài rửa
chân cho các môn đệ, Ngài hướng họ về tiệc Thánh Thể mà Ngài sắp dọn cho các ông,
để rồi nhờ dự tiệc của Ngài, các ông biết phục vụ đồng loại như Thầy đã rửa
chân nêu gương cho. (x Ga 13,12-17). Noi gương phục vụ của Chúa Giêsu không
phải là dễ, nên Ngài nói : “Anh em hãy
mang lấy ách của tôi, và hãy học với tôi, vì tôi có lòng hiền hậu và khiêm
nhường” (Mt 11,29ab : Tung Hô Tin Mừng).
Tác
giả sách Huấn ca nói : “Ở địa vị càng cao
sang, con càng phải hạ mình xuống, để làm đẹp lòng Chúa, vì quyền năng Chúa thì
lớn lao, Người được tôn vinh nơi những kẻ khiêm nhường” (Hc 3,18-20)
Thánh
Giacôbê nói : “Chúa chống lại kẻ kiêu
căng và ban ơn cho kẻ khiêm nhường” (Gc 4,6).
Vào năm
1912, người ta hạ thủy con tàu Titanic, được xem là lớn nhất vào thời ấy : có
trọng tải 60.000 tấn, dài 270m. Các kỹ sư tính toán rất kỹ, không để một sai
sót nào, dù có gặp phong ba bão tố cũng không cản trở cuộc hành trình. Vì thế
họ đã đề hàng chữ bên hông tàu rằng : “Cả
đến Thiên Chúa cũng không nhận chìm được !”
Con tàu nhổ
neo đi từ Luân Đôn đến Nữu Ước, vào đêm 14-04-1912, lúc trời yên biển lặng,
trong khi mọi người đang ăn uống, vui chơi thỏa thích. Thình lình con tàu bị va
chạm mạnh vào một tảng băng ngầm xẻ đôi con tầu, cắt đứt hàng chữ “kiêu ngạo”
bên hông, và con tàu từ từ chìm xuống đáy đại dương, chôn sống 1.513 hành khách
!!
Ôi bao nhiêu
chất xám của rất nhiều kỹ sư nổi tiếng đổ vào con tầu khổng lồ, tối tân chưa
từng có cũng chìm lỉm dưới lòng đại dương! Rõ ràng con tàu vĩ đại ấy chưa gặp
một trận cuồng phong nào mà đã bị xé đôi như thế !?
Thua xa tầu
của ông Noe làm theo Lời Chúa chỉ dẫn, ông chỉ là “tay ngang” đóng tầu, con tầu
thiếu cả bánh lái thế mà ông Noe đã điều khiển con tàu đi suốt 40 ngày đêm lênh
đênh trên biển cả mà không hề hấn gì ! (x St 6,13t) Thật chí lý khi nhắc lại
Lời Chúa Giêsu đã khẳng định :
“Ngoài Ta ra các ngươi không thể làm gì được
!” (Ga 15,5c).
3- PHẢI PHỤC VỤ ĐÚNG CHỨC NĂNG CHÚA
THÁNH THẦN ĐÃ PHÂN ĐỊNH.
Thánh
Phaolô nói : “Chúa Thánh Thần phân định
cho mỗi người ơn khác nhau : Người thì làm Tông Đồ, người làm thầy dạy, người
có tài chữa bệnh : tất cả đều là chi thể của nhau trong Thân Mình Mầu Nhiệm
Chúa Kitô, nên phải lệ thuộc vào nhau, tôn trọng, cần đến nhau” (x 1Cr 12).
Khi phục vụ đừng quên địa vị cao cả của mình là con Thiên Chúa, ý thức mình làm
chủ công việc, đồng thời mình còn là tôi tớ mọi người để phục vụ, mà không đánh
mất phẩm giá danh con Thiên Chúa, tức là không để người ta sai khiến làm cả
những điều trái ý Chúa.
Chúa
Giêsu dạy : “Hãy chọn ngồi chỗ cuối để chủ tiệc mời bạn lên chỗ danh dự” (Lc 14,10b : Tin
Mừng). Lời này Chúa Giêsu không có ý dạy : Mỗi khi ta đi dự tiệc người đời tổ
chức, thì ta cứ xuống bếp ngồi, chờ cho chủ tiệc mời lên trên. Nhưng khi ta tới
phòng tiệc, người chủ xếp ta ngồi đâu thì ngồi đó. Như thế mới là người có nhân
bản, không làm phiền ai, lại làm vui lòng chủ tiệc. Nhưng lời giáo huấn của
Chúa Giêsu trong Tin Mừng, Ngài nhắm nói với người Do Thái : Phải khiêm tốn mới
nhận ra giá trị Giáo Lý của Ngài, và biết quý trọng bàn tiệc Thánh Thể trong
Nước Chúa (Hội Thánh) để đến tham dự. Ai gia nhập Hội Thánh mà muốn được tôn
vinh, thì người ấy gắng khắc phục bản thân, sống đòi hỏi của Tin Mừng để nên
thánh đạt địa vị cao cả, danh vang lẫy lừng. Vì người đi không cầu có bóng mà
bóng vẫn theo ; người hô không mong tiếng dội mà tiếng vẫn vọng ; người đức độ
không đợi khen mà danh vang lừng. Mẹ Têrêsa Calcutta hạ mình phục vụ những
người xấu số trong xã hội, dù mẹ không có địa vị gì cao cả trong Hội Thánh, vậy
mà cả thế giới tôn vinh mẹ, nhiều cường quốc xin mẹ làm công dân danh dự.
Ta
biết ai đã được lãnh Bí tích Khai Tâm là người ấy có quốc tịch Nước Trời, chắn
chắn sẽ được Chúa ưu đãi, Ngài chăm sóc như con ngươi mắt Ngài (x Dnl 32,10),
giống như khi một người đến lập cư tại nước tư bản, ai cũng mong thi đậu để trở
thành công dân nước ấy, có thế họ không còn lo ăn gì, lấy gì mặc, thuốc đâu mà
uống, đặc biệt vào tuổi già, chính phủ đã lo cho họ chu đáo về mọi phương diện
đời sống vật chất. Thế thì khi ta đã là công dân Nước Trời, ta được biết mình
có địa vị cao cả hơn ông Gioan Tẩy Giả, như Đức Giêsu nói : “Trong những người do người nữ sinh ra, không
ai cao trọng bằng Gioan Tẩy Giả, nhưng kẻ nhỏ trong Nước Trời còn lớn hơn ông”
(Mt 11,11). Ông Gioan Tẩy Giả được cao cả như thế, vì trong loài người chỉ
riêng một mình ông giống Chúa Giêsu từ lúc tượng thai trong lòng mẹ cho đến lúc
chết. Và trong mầu nhiệm ơn cứu độ, ông là chú phù rể của Tân Lang Giêsu (x Ga
3,29) thua xa người Kitô là Hiền Thê của Tân Lang Giêsu (x 2Cr 11,2), ông còn thua hẳn
“kẻ nhỏ” trong Nước Trời là người Kitô hữu (x 1Ga 2,1.12.14.18), nhất là người
Kitô hữu còn được đồng hóa với Chúa Giêsu (x Gl 2,20), vì cùng một xương thịt, một sự sống với Ngài (x
Dt 2,11.14 ; Ga 6,57).
Chính
vì ơn lộc Chúa ban cho người Kitô hữu hơn lòng họ mong ước (x Ep 3,20), nên họ
cất lời ca tụng Chúa : “Linh hồn con khao
khát Chúa Trời, Chúa Trời hằng sống, như nai rừng mong mỏi tìm về suối nước
trong, hồn con cũng trông mong, được gần Ngài, lạy Chúa” (Tv 42/41,2-3 : ĐC
năm chẵn).
Thánh
Phaolô đã nêu lên sự nghịch lý giữa người Do Thái với dân ngoại, khi ông thấy
dân ngoại ồ ạt vào Hội Thánh, việc này đã trở nên dấu để cảnh tỉnh dân Chúa
chọn : Đừng để thua dân ngoại, một hãy gia nhập Hội Thánh, dự tiệc Thánh Thể,
là được danh dự nhất. Đúng lý ra người Do Thái phải ồ ạt vào Hội Thánh để dự
tiệc đầu tiên, vì họ đã được Chủ tiệc (Chúa Giêsu) mời đón họ trước, nhưng họ
lại quyết liệt chối từ, giống như khách chối từ tiệc vua đã dọn : Người thì mới
mua đất phải đi xem, kẻ mới tậu bò phải
đi thử, đứa khác nói : tôi mới cưới vợ, không đi đâu được ! Cuối cùng các đầy
tớ (Tông Đồ) đi mời bất luận ai ở ngoài đường, dù là kẻ tàn tật đui mù (dân
ngoại) vào dự tiệc của vua (Hội Thánh) [x Lc 14,15t]. Vì thế ông Phaolô tìm
cách kích động dân Do Thái, người đồng chủng với ông : “Ông hỏi họ : Phải chăng Israel
đã vấp đến mức phải ngã quỵ ? Không phải thế ! Nhưng vì họ sa ngã mà Thiên Chúa
cho các dân ngoại hưởng ơn cứu độ, khiến họ phải ganh tỵ. Nếu vì người Do-Thái
sa ngã, mà thế gới được ơn phúc dồi dào, thì khi họ suy vi, mà các dân ngoại
được vào Hội Thánh hưởng lộc Chúa ban, thì khi họ trở về đông đủ tình trạng còn
tốt đẹp hơn biết mấy! Quả thế, khi
Thiên Chúa đã ban ơn và kêu gọi, thì Người không hề đổi ý ” (x Rm
11,11-12.28-29 : Bài đọc năm lẻ).
Ông
Phaolô là chính tông Israel, khi chưa được Tin Mừng Chúa Giêsu soi chiếu, ông
chỉ biết Luật Môsê, và tưởng rằng hễ triệt để tuân giữ Luật, đương nhiên mình
là người công chính, bởi thế ông đã vấp ngã trên đường Đama. Nhưng khi ông được
môn đệ Đức Giêsu đặt tay, để ông được nhận Thánh Thần, tức khắc mắt ông được
sáng lại, đó là dấu ông được Chúa mở mắt Đức Tin, từ đó ông trở nên Tông Đồ
xuất sắc nhất của Chúa Giêsu, không thua các Tông Đồ thượng đẳng (x Cv 9,1t;
2Cr 11,5). Ông Phaolô đã trở nên mẫu người trở về với Chúa để được phục vụ
trong Hội Thánh. Ông nói : “Đức Giêsu đến
trần gian để cứu những người tội lỗi, trong số đó tôi là người thứ nhất”
(1Tm 1,15). Mẫu đẹp nhất nơi ông Phaolô là tích cực loan báo Tin Mừng, đến nỗi bị
xiềng xích trong ngục tù. Ngồi trong tù ông viết thư gởi giáo đoàn Philip
khuyến khích mọi người với bất cứ giá nào phải tích cực động viên hết thảy mọi loại
người loan báo Tin Mừng, như bù cho ông. Ông nói : “Dù thế nào đi nữa có người giảng Tin Mừng với ý lành hay ý xấu, cuối
cùng Đức Kitô được rao giảng là tôi mừng. Và tôi sẽ còn mừng nữa, bởi vì tôi
biết rằng điều ấy sẽ giúp cho tôi đạt được ơn cứu độ, nhờ lời cầu nguyện của
anh em, và nhờ Thần Khí của Đức Giêsu Kitô phù trợ. Đó là điều tôi đợi chờ và
hy vọng. Sẽ không có gì làm cho tôi phải hổ thẹn, trái lại tôi hoàn toàn vững
tin. Bây giờ cũng như mọi lúc, Đức Kitô sẽ tỏ bày quyền uy cao cả của Người nơi
thân xác tôi, dù tôi sống hay tôi chết: vì đối với tôi, sống là Đức Kitô, và
chết là một mối lợi. Nếu sống ở đời này mà công việc của tôi được sinh hoa kết
quả, thì tôi không biết phải chọn đàng nào. Vì tôi bị giằng co giữa hai đàng:
ao ước của tôi là ra đi để được ở với Đức Kitô, điều này tốt hơn bội phần:
nhưng ở lại đời này thì cần thiết hơn, vì anh em. Và tôi biết chắc rằng tôi sẽ
ở lại và ở bên cạnh tất cả anh em để giúp anh em tấn tới và được hưởng niềm vui
đức tin mang lại cho anh em. Như thế, trong Đức Kitô Giêsu, anh em càng có lý
do để hãnh diện về tôi, khi tôi lại đến gặp anh em.” (Pl 1,18b-26 : Bài đọc
năm chẵn).
Như
thế ông Phaolô sống rất khiêm tốn, ông không độc quyền giảng Tin Mừng để được
danh riêng cho mình, mà ông muốn Tin Mừng được hết mọi loại người loan báo cách
rộng rãi hơn, làm cho tâm hồn ông luôn bình an! Nói cách khác, ai làm điều tốt
cũng được, miễn là điều tốt có người làm thì Chúa được vinh hiển! Có tích cực
rao giảng Tin Mừng như Tông Đồ Phaolô mới làm cho mọi người cất lời cầu : “Linh hồn con khao khát Chúa Trời là Chúa
Trời hằng sống” (Tv 42/41,3a : ĐC năm chẵn).
Vậy
đừng ai tự tôn, tự mãn, tự ái mà trì hoãn, chối từ vào Hội Thánh để được dự
tiệc Thánh Thể, nếu muốn mình đạt được
địa vị cao cả nhất, thì phải là người được đồng danh, đồng vị với Chúa Giêsu cùng là “Con Đấng Tối Cao” (x Lc 1,32 = Lc 6,35), thì
khiêm tốn năng đến dự tiệc Thánh Thể.
THUỘC LÒNG
Phàm
ai tôn mình lên sẽ bị hạ xuống ; ai hạ mình xuống sẽ được tôn lên! (Lc 14,11)
Kẻ nhỏ trong Nước Trời (người Kitô hữu) còn
lớn hơn ông Gioan Tẩy Giả (Mt 11, 11).
http://phaolomoi.net
Linh mục GIUSE ĐINH QUANG THỊNH