BÀI ĐỌC 1 VÀ 2 (NẾU CÓ)
BÀI ĐỌC I : Hs 11,1.3-4.5c.8ac-9
1 Đức Chúa phán thế này :
Khi Ít-ra-en còn là non trẻ, Ta đã yêu nó,từ Ai-cập Ta đã gọi con Ta về.3
Ta đã tập đi cho Ép-ra-im, đã đỡ cánh tay nó, nhưng chúng không hiểu là Ta chữa
lành chúng. 4 Ta lấy dây nhân nghĩa, lấy mối ân tình mà lôi kéo
chúng.Ta xử với chúng như người nựng trẻ thơ, nâng lên áp vào má ; Ta cúi xuống
gần nó mà đút cho nó ăn.5c nhưng nó không chịu về với Ta. 8ac
Hỡi Ép-ra-im, Ta từ chối ngươi sao nổi!Hỡi Ít-ra-en, Ta trao nộp ngươi sao
đành! Trái tim Ta thổn thức, ruột gan Ta bồi hồi. 9 Ta sẽ không hành
động theo cơn nóng giận, sẽ không tiêu diệt Ép-ra-im nữa, vì Ta là Thiên Chúa,
chứ không phải người phàm.Ở giữa ngươi, Ta là Đấng Thánh, và Ta sẽ không đến
trong cơn thịnh nộ.
ĐÁP CA : Is 12
Đ. Các
bạn sẽ vui mừng múc nước tận nguồn ơn cứu độ. (c 3)
2 Đây chính là Thiên
Chúa cứu độ tôi, tôi tin tưởng và không còn sợ hãi, bởi vì Đức Chúa là sức mạnh
tôi, là Đấng tôi ca ngợi, chính Người cứu độ tôi. 3 Các bạn sẽ vui
mừng múc nước tận nguồn ơn cứu độ.
4 Hãy tạ ơn Đức Chúa,
cầu khẩn danh Người, vĩ nghiệp của Người, loan báo giữa muôn dân, và nhắc nhở :
danh Người siêu việt.
5 Đàn ca lên mừng Đức
Chúa , vì Người đã thực hiện bao kỳ công ; điều đó, phải cho toàn cõi đất được
tường. 6 Dân Xi-on, hãy reo hò mừng rỡ, vì giữa ngươi, Đức Thánh của
Ít-ra-en quả thật là vĩ đại!
BÀI ĐỌC II : Ep 3,8-12.14-19
8 Thưa anh em, tôi là kẻ
rốt hết trong toàn thể dân thánh, thế mà Thiên Chúa đã ban cho tôi ân sủng này
là loan báo cho các dân ngoại Tin Mừng về sự phong phú khôn lường của Đức
Ki-tô, 9 và soi
sáng cho mọi người được thấy đâu là mầu nhiệm Thiên Chúa đã an bài. Mầu nhiệm
này đã được giữ kín từ muôn thuở nơi Thiên Chúa là Đấng tạo thành vạn vật,10
để giờ đây, nhờ Hội Thánh, mọi quyền năng thượng giới được biết sự khôn ngoan
thiên hình vạn trạng của Thiên Chúa.11 Thiên Chúa đã hành động như
thế theo quyết định Người đã có từ muôn thuở và đã thực hiện nơi Đức Ki-tô
Giê-su, Chúa chúng ta.12 Trong Đức Ki-tô và nhờ tin vào Người, chúng
ta được mạnh dạn và tin tưởng đến gần Thiên Chúa.
14 Vì lý do đó, tôi quỳ
gối trước mặt Chúa Cha,15 là nguồn gốc mọi gia tộc trên trời dưới
đất.16 Tôi nguyện xin Chúa Cha, thể theo sự phong phú của Người là
Đấng vinh hiển, ban cho anh em được củng cố mạnh mẽ nhờ Thần Khí của Người, để
con người nội tâm nơi anh em được vững vàng.17 Xin cho anh em, nhờ
lòng tin, được Đức Ki-tô ngự trong tâm hồn; xin cho anh em được bén rễ sâu và
xây dựng vững chắc trên đức ái,18 để cùng toàn thể dân thánh, anh em
đủ sức thấu hiểu mọi kích thước dài rộng cao sâu,19 và nhận biết
tình thương của Đức Ki-tô, là tình thương vượt quá sự hiểu biết. Như vậy anh em
sẽ được đầy tràn tất cả sự viên mãn của Thiên Chúa.
BÀI GIẢNG
THÁNH
TÂM CHÚA CỨU TA THOÁT TỬ THẦN
Chúng ta biết Phụng Vụ của Hội Thánh
đã làm hiện tại hóa cuộc Tử Nạn và Phục Sinh của Chúa Giêsu, qua mùa Chay và
mùa Phục Sinh, lần lượt Hội Thánh cử hành các Lễ : Chúa Phục Sinh,Chúa Lên
Trời, Chúa Thánh Thần Hiện Xuống,Chúa Ba Ngôi, Mình Máu Thánh Chúa, và hôm nay
lễ Thánh Tâm làm nổi bật tình yêu của Thiên Chúa trong chương trình cứu chuộc
loài người :
- Ngài ban cho ta ơn
nhưng không.
- Ngài ban ơn nhưng
không lớn nhất là cứu ta thoát tay tử thần.
- Ngài sai ta đi loan
báo Tin Mừng cứu độ.
I. THIÊN CHÚA BAN CHO
TA ƠN NHƯNG KHÔNG.
“Ơn nhưng không” là ơn không bởi công đức của con người. Ơn Ngài ban hoàn
toàn bởi tình thương của Thiên Chúa. Thực vậy
- Sau khi Adam, Eva phạm tội, Chúa biết họ xấu hổ phải lấy lá
vả làm khố che thân mà không ổn (x St 3,7), thì Ngài tự làm áo bằng da thú mặc
cho họ (x St 3,21).
- Sau khi nguyên tổ lỗi luật Chúa, họ sợ nghe tiếng Chúa nên
tìm nơi ẩn núp ; thì Chúa lại tự ý tìm kiếm họ, Ngài dò hỏi : “Ngươi ở đâu ?” Khi Chúa thấy họ, thì họ lại
đổ lỗi cho nhau, nhằm quy tội tại Chúa tạo cớ cho họ phạm tội! Thế mà Chúa lại
đứng về phía họ chống lại Satan, Ngài hứa ban Đấng Cứu Độ khi ra hình phạt cho
con rắn (Satan) : “Ta sẽ đặt hận thù giữa
ngươi và người đàn bà, giữa dòng giống ngươi và dòng giống nó. Dòng giống nó sẽ
đạp đầu ngươi, còn ngươi sẽ táp lại gót chân” (St 3,8-15).
- Nhất là khi dân Israel còn cư ngụ bên đất Ai Cập, ông Giuse
con trưởng chính thức của ông Giacob, sinh hai người con trai, đứa cả tên là
Manasê, đứa em là Ephraim (x St 41,51), thì ông Giacob (Israel) trước giờ chết,
thay vì ông đặt tay phải trên đầu Manassê là cháu đích tôn của ông để chúc phúc
cho nó, thì Chúa lại xui khiến ông Giacob đặt tay phải lên đầu Ephraim (đứa út)
để xin Chúa tuôn đổ phúc lành trên nó (ơn nhưng không) [x St 48]. Phúc lành đó
Chúa thực hiện vào thời đầu Israel thoát khỏi nô lệ Ai Cập cách oai hùng, lên
đường đi vào sa mạc, và được trực tiếp “Chúa
lấy dây nhân nghĩa”, tức là lòng nhân ái và dịu hiền ; “đút cho chúng ăn” :
Chúa cho chim cút bay đến ngập trại của họ, họ tha hồ bắt làm thịt ; và manna
hằng ngày từ trời mưa xuống, dân chỉ việc ra lượm mà ăn no thỏa (x Xh 16 ; Dnl
8,16 ; Hs 13,5-6). Bởi thế Chúa dùng miệng ngôn sứ Hôsê nhắc lại cho dân nhớ
đến lòng thương xót của Ngài đã ra tay cứu dân Israel thoát nô lệ Ai Cập:
“Đức
Chúa phán thế này : Khi Ít-ra-en còn là non trẻ, Ta đã yêu nó,từ Ai Cập Ta đã
gọi con Ta về. Ta đã tập đi cho Ép-ra-im, đã đỡ cánh tay nó, nhưng chúng không
hiểu là Ta chữa lành chúng. Ta lấy dây nhân nghĩa, lấy mối ân tình mà lôi kéo
chúng.Ta xử với chúng như người nựng trẻ thơ, nâng lên áp vào má ; Ta cúi xuống
gần nó mà đút cho nó ăn, nhưng nó không chịu về với Ta. Hỡi
Ép-ra-im, Ta từ chối ngươi sao nổi!Hỡi Ít-ra-en, Ta trao nộp ngươi sao đành!
Trái tim Ta thổn thức, ruột gan Ta bồi hồi. Ta sẽ không hành động theo cơn nóng
giận, sẽ không tiêu diệt Ép-ra-im nữa, vì Ta là Thiên Chúa, chứ không phải
người phàm.Ở giữa ngươi, Ta là Đấng Thánh, và Ta sẽ không đến trong cơn thịnh
nộ” (Hs 11,1.3-4.5c.8ac-9 : Bài đọc I).
Tức là Chúa thực hiện lời chúc phúc
của ông Giacob cho giống nòi của ông, khi ông đặt tay phải trên đầu Ephraim mà
cầu phước. Phúc lộc này khởi đi từ lúc Chúa dùng bàn tay ông Môsê cứu dân thoát
nô lệ Ai Cập, lại trở thành dấu chỉ chính Con Một Thiên Chúa cứu loài người
thoát nô lệ Satan, đánh gục thần chết (x Mt 2,19t).
II. THIÊN CHÚA BAN ƠN
NHƯNG KHÔNG LỚN NHẤT LÀ CỨU TA THOÁT TAY TỬ
THẦN.
Người Do Thái quan niệm bệnh là hậu
quả bởi tội do Satan xúi giục (x Ga 9,2).
Trong số 33 phép lạ Chúa Giêsu làm được cả bốn Tin Mừng ghi lại, thì có mười
loại phép lạ người Do Thái hiểu Ngài cứu người ta khỏi tay Satan. Mười phép lạ ông Môsê thực hiện trên đất
Ai Cập làm cho cả đế quốc Ai Cập hoảng sợ, để ông Môsê dẫn dân thoát nô lệ về
miền đất Chúa hứa ; Mười phép lạ ấy thua xa mười loại phép lạ Đức Giêsu thực
hiện trước khi Ngài dẫn loài người thoát nô lệ Satan, thoát tay tử thần :
1- Mọi nguồn nước sông rạch hồ ao
bên Ai Cập hóa thánh máu, dân Ai Cập không có nước uống, mọi sinh vật dưới nước
đều bị diệt (x Xh 7,14t).
Chúa Giêsu trừ quỷ xuất khỏi
một người (x Mt 8,28t).
2- Ếch nhái tràn ngập
đế quốc Ai Cập, nhảy cả vào cung cấm nhà vua (x Xh 7,26t).
Chúa Giêsu chữa lành kẻ bất
toại (x Mt 9,1t).
3- Ruồi muỗi tràn ngập Ai Cập (x Xh
8,12t).
Chúa Giêsu chữa lành em bé
bị kinh phong (x Mt 17,14t).
4- Ruồi mòng tràn ngập đế quốc Ai Cập (x
Xh 8,16t).
Chúa Giêsu chữa lành kẻ câm
điếc (x Mc 7,31t).
5- Ôn dịch khắp đế quốc Ai Cập, mọi sinh
vật đều bị chết (x Xh 9,1t).
Chúa Giêsu cứu sống người
đàn bà bị bệnh loạn huyết (x Lc 8,43t).
6-
Ung nhọt
lở loét khắp hết mọi người Ai Cập (x Xh 9,8t).
Chúa Giêsu cho người đàn bà
bị còng lưng đứng thẳng (x Lc 13,10t).
7- Mưa đá phá hoại mùa màng cây cối của người Ai Cập (x Xh
9,13t).
Chúa Giêsu chữa lành kẻ bị
phong hủi (x Lc 17,11t).
8- Châu chấu tràn ngập Ai Cập, chúng
phá hoại mùa màng (x Xh 10,1t).
Chúa Giêsu cứu người phụ nữ
ngoại tình khỏi bị ném đá chết (x Ga 8,1t).
9- Tối tăm bao trùm toàn đế quốc Ai
Cập (x Xh 10, 21t).
Chúa Giêsu cho kẻ mù được
sáng mắt (x Ga 9,1t).
10- Con trai đầu lòng của người Ai Cập,
kể cả con vua và loài vật đều bị giết chết (x Xh 11,1t).
Chúa Giêsu cho kẻ chết sống
lại (x Ga 11,1t).
11- ÔNG MÔSÊ DẪN DÂN ISRAEL VƯỢT QUA
BIỂN ĐỎ, THOÁT NÔ LỆ AI CẬP (x Xh 12-15).
CHÚA GIÊSU BỊ ĐÂM TRÊN THẬP
GIÁ, NƯỚC VÀ MÁU TỪ TIM ĐỔ XUỐNG, KHƠI NGUỒN CÁC BÍ TÍCH, ĐẶC BIỆT AI LÃNH NHẬN
BÍ TÍCH THÁNH TẨY VÀ THÁNH THỂ, NGƯỜI ẤY ĐƯỢC NGÀI GIẢI THOÁT KHỎI TAY SATAN, ĐÁNH
GỤC THẦN CHẾT! (x Ga 19,33 : Tin Mừng).
Như thế, Chúa dùng ông Môsê thực hiện mười một phép lạ để cứu Israel
thoát nô lệ Ai Cập và dẫn dân về miền đất chảy sữa và mật (x Xh 3,8). Đó là dấu
chỉ Chúa Cha sai Con Một của Người đến trần gian để cứu những ai đang làm nô lệ
cho Satan được tự do gia nhập Hội Thánh, mới thực là miền đất chảy sữa và mật.
Chân lý này được Đức Giêsu thực hiện khi Ngài bị đóng đinh trên thập giá mà
không một xương nào bị đánh gãy, Ngài chính là Con Chiên giải thoát loài người
tội lỗi, làm ứng nghiệm con chiên của người Do Thái giết bên Ai Cập, ông Môsê
cũng ra lệnh cho họ không được đánh gãy xương nó, mọi người ăn thịt chiên và
mau mắn lên đường về miền đất Hứa để được tự do thờ phượng Thiên Chúa (x Xh 12,13.46
= Ga 19,33-34 : Tin Mừng). Để không phải riêng cho dân tộc Israel mà bất cứ ai trên trần gian
đã lãnh Bí tích Thánh Tẩy bằng nước, để có điều kiện được rước Lễ : ăn Thịt và uống
Máu Chúa Giêsu là Con Chiên Thiên Chúa bị sát tế, mới được thoát án phạt là sự
chết do tội đã gây nên.
Hôm nay trong ngày Lễ Thánh Tâm,
Chúa Giêsu nhấn mạnh Thiên Chúa muốn cứu hết thảy mọi người thoát nô lệ Satan.
Thế mà trong thực tế có nhiều người lại muốn làm nô lệ cho cái bụng, tôn nó làm
chúa, vinh quang đặt nơi điều đáng xấu hổ, vì chỉ nghĩ đến những điều ở dưới
đất (x Pl 3,19), hậu quả là tự lên án tử cho mình cả hồn lẫn xác!
Vậy những ai muốn canh tân đời sống,
chỗi dậy về với Chúa, thì phải biết chạy đến tòa Hòa Giải, năng đọc Thánh Kinh,
năng tham dự Thánh Lễ, để được Chúa Giêsu Thánh Thể giải thoát ta khỏi mọi thứ nô
lệ để được sống tự do làm con cái Thiên Chúa. Vì Bí tích Thánh Thể là nguồn ơn
tha tội bậc nhất. Sách GLHT số 1416 dạy : “Việc
rước Mình và Máu Thánh Chúa Kitô gia tăng sự kết hợp của người rước Lễ với
Chúa, tha thứ cho họ các tội nhẹ và gìn giữ họ khỏi các tội trọng. Vì việc rước
Lễ củng cố mối liên hệ tình yêu giữa người rước Lễ với Chúa Kitô, nên việc lãnh
Bí tích này cũng củng cố sự hiệp nhất của Hội Thánh là Thân Thể Mầu Nhiệm của
Đức Kitô”. Sự hiệp nhất này sách GLHT số 1419 nói tiếp : “Nhờ tham dự Bí tích Thánh Thể là bảo chứng
cho chúng ta được chung hưởng vinh quang với Chúa. Việc tham dự Thánh Lễ uốn
lòng chúng ta nên giống trái tim Chúa, nâng đỡ sức lực chúng ta trên đường lữ
hành tại thế, làm cho chúng ta khao khát cuộc sống vĩnh cửu và ngay từ bây giờ
liên kết chúng ta với Hội Thánh trên trời, với Đức Trinh Nữ Maria và các Thánh”.
Vì thế xét về mặt thần học, không có tội nào ngăn cản người Công Giáo
rước Lễ. Nhưng kỷ luật của Hội Thánh đòi buộc những ai mắc tội trọng có điều
kiện đi xưng tội, mà không xưng, thì không được rước Lễ. Trừ trường hợp quan
trọng, mang tội trọng mà cần phải rước Lễ, lại không gặp được Linh mục giải
tội, thì ăn năn sám hối tội mình, hàm ý sẽ xưng tội càng sớm càng tốt khi có
thể, thì vẫn được rước Lễ (x Giáo Luật 916).
Mẹ tôi đã sinh được bốn người con
thì bố tôi mất! Theo luật làng khi một gia đình không có người nam nào từ 18
tuổi trở lên, thì làng lấy lại hết ruộng đất, chỉ để cho gia đình ấy một sào
ruộng mà thôi! Mỗi năm mẹ và các anh chị tôi làm cật lực may mắn trúng mùa cũng
chỉ thâu hoạch được khoảng 200 kg thóc! Bởi đó gia đình tôi thuộc hạng nghèo
nhất làng!
Mẹ tôi có tật nghiện trầu từ nhỏ,
nhiều lần bà muốn bỏ trầu để có thêm ít tiền lẻ mua rau cho con. Nhưng không
sao chừa được. Có lần mẹ tôi bị bệnh rất nặng, chẳng ăn uống gì được, và dĩ
nhiên là không nhai được trầu, tóc đầu rụng gần hết, chỉ còn chờ chết, nhưng
Chúa thương cho gặp thầy gặp thuốc, và mẹ tôi đã khỏe lại. Nhưng suốt thời
gian đau bệnh, bà đã tưởng sẽ bỏ được
trầu, thế mà vừa khỏi bệnh bà đã nghĩ ngay đến trầu và xem ra còn nghiện hơn
trước! Mẹ tôi rất buồn, chỉ còn biết thưa với Chúa mỗi khi rước Lễ : “Lạy Chúa, con nghèo lắm, muốn có thêm chút
tiền nuôi con, xin Chúa giúp con chừa được tật nghiện trầu, vừa cho miệng con
sạch sẽ để rước Chúa!”
Thời gian sau tôi thấy mẹ không ăn
trầu nữa, tôi ngạc nhiên hỏi, thì mẹ tôi nói nhờ cầu nguyện với Chúa sau khi
rước Lễ, mà Chúa đã cho mẹ bỏ trầu lúc nào mẹ không biết.
III. CHÚA SAI TA ĐI
LOAN BÁO TIN MỪNG CỨU ĐỘ.
Ơn nhưng không đặc biệt nữa là Chúa
tín nhiệm sai ta đi loan báo Tin Mừng cứu độ, dù Ngài biết ta vốn dĩ là kẻ tội
lỗi. Căn tính của người Công Giáo là loan báo Tin Mừng cho mọi người, nên giáo
huấn Công Đồng Vat. II trong Hiến Chế Hội Thánh số 35 dạy : “Giáo dân có thể và phải có một hoạt động cao
quý là truyền bá Tin Mừng cho thế giới, cả lúc họ bận tâm lo lắng việc trần thế!”
Người Công Giáo chính danh, ai cũng phải nói như thánh Tông Đồ : “Tôi rao giảng Tin Mừng không phải là lý do
để vinh vang, nhưng đó là sự khẩn thiết giáng xuống trên tôi, khốn cho tôi, nếu
tôi không loan báo Tin Mừng.Giả như tôi tự ý mình mà làm việc ấy, ắt tôi có
công, nhưng nếu là ngoài ý tôi, thì đó là trách nhiệm đã ký thác cho tôi”
(1Cr 9,16-17).
Rao giảng Lời Chúa không nhất thiết
là phải đi tu, mà mỗi khi ta làm “bất cứ
việc gì, hãy làm tận tâm như thể làm cho Chúa chứ không phải cho người đời”
(Cl 3,23), để nói với mọi người như thánh Phaolô dạy : “Dù ăn, dù uống, dù làm bất cứ việc gì, anh em hãy làm tất cả để tôn
vinh Thiên Chúa” (1Cr 10,31). Ơn gọi rao giảng Tin Mừng của mỗi Kitô hữu,
phải ý thức như ông Phaolô được Chúa sai đi, ông vốn dĩ là kẻ khốn nạn bách hại
đạo Chúa (x Cv 9), nhưng khi ông đã tin theo Chúa Giêsu thì ông nói : “Tôi là kẻ rốt hết trong toàn thể dân thánh,
thế mà Thiên Chúa đã ban cho tôi ân sủng này là loan báo cho dân ngoại Tin Mừng
về sự phong phú khôn lường của Đức Ki-tô, và soi sáng cho mọi người được thấy
đâu là mầu nhiệm Thiên Chúa đã an bài, để nhờ Thần Khí của Người, con người nội
tâm anh em được vững vàng. Nhờ lòng tin được Đức Ki-tô ngự trong tâm hồn, hầu
anh em được bén rễ sâu mà xây dựng vững chắc trên đức ái, anh em có đủ sức thấu
hiểu mọi chiều kích dài rộng cao sâu, và nhận biết tình thương của Đức Ki-tô,
là tình thương vượt quá sự hiểu biết. Như vậy anh em sẽ được dẫy tràn tất cả sự
viên mãn của Thiên Chúa” (Ep 3,8-9.16-19 : Bài đọc II).
Vậy có tích cực với lòng mến loan
báo Tin Mừng, ít là qua cách sống Đạo, ta mới có thể nói với mọi người : “Các bạn sẽ vui mừng múc nước tận nguồn ơn
cứu độ” (Is 12,3 : Đáp ca), một khi giúp người anh em thực hành Lời Chúa
Giêsu dạy : “Anh em hãy mang lấy ách của
tôi, và hãy học với tôi, vì tôi có lòng hiền hậu và khiêm nhường” (Mt
11,29ab : Tung Hô Tin Mừng).
THUỘC LÒNG.
Chúa phán : “Trái tim Ta thổn thức, ruột gan Ta bồi hồi, Ta
sẽ không hành động theo cơn nóng giận, vì Ta là Thiên Chúa chứ không phải phàm
nhân” (Hs 11,8-9).
http://phaolomoi.net
Lm GIUSE
ĐINH QUANG THỊNH