BÀI GIẢNG
SÓNG GIÓ CỦA NIỀM TIN
Sự cố các Tông Đồ gặp
sóng gió trên biển, nhằm tiên báo cho những ai tin theo Đức Giê-su, họ sẽ còn
phải gặp sóng gió về niềm tin khởi đi từ cuộc Tử Nạn của Ngài.
Thực vậy, những chi
tiết thuyền các Tông Đồ gặp sóng gió trên biển được lặp lại vào giờ Tử Nạn và
Phục Sinh của Chúa Giê-su :
1- Trước Phục Sinh,
Đức Giê-su nói với các môn đệ : “Chúng
con hãy sang bờ biển bên kia” (Mc
4,35 : Tin Mừng).
Sau Phục Sinh,
Chúa Giê-su ra lệnh cho các môn đệ đi khắp thế gian loan báo Tin Mừng (x Mc
16,15).
2- Trước Tử Nạn,
Đức Giê-su nằm trên thuyền của các môn đệ chở Ngài sang bờ bên kia, một trận
cuồng phong nổi lên, sóng ập vào thuyền, trong lúc Đức Giê-su dựa đầu vào đằng
lái mà ngủ (x Mc 4,36-38 : Tin Mừng).
Vào giờ Tử Nạn, Đức Giê-su “ngủ” trên thập
giá, niềm tin các môn đệ bị dao động, các ông bỏ Thầy mà chạy trốn hết (x Mc
14,50).
3- Trước Tử Nạn,
các môn đệ thưa : “Thầy ơi, chúng ta chết
mất, Thầy chẳng lo gì sao ?” Người thức dậy, ngăm đe gió và truyền cho biển
: “Im đi !” Gió liền tắt, biển lặng
như tờ ! (x Mc 4,38b-39 : Tin Mừng).
Sau Tử Nạn, Chúa
Giê-su sống lại, làm cho niềm tin các môn đệ kiên vững, không sợ sự dữ làm hại,
đến như có cầm rắn trong tay, uống nhằm thuốc độc cũng không hề hấn gì (x Mc
16,17-18).
4- Trước Tử Nạn,
các môn đệ vẫn thắc mắc Thầy mình là ai, mà cả đến gió và biển cũng phải vâng
lệnh ? (x Mc 4,41 : Tin Mừng).
Lúc Tử Nạn,
người đầu tiên trong nhân loại, vị sĩ quan ngoại giáo đã chỉ huy cuộc hành
quyết giết Đức Giê-su cũng phải hô lên : “Đích
thực người này là Con Thiên Chúa” (Mc 15,39).
Vậy sau khi Chúa Giê-su
Phục Sinh, đời sống Hội Thánh hay mỗi người Ki-tô hữu vẫn còn gặp sóng gió. Có
hai loại sóng gió:
-
Sóng gió bởi tin làm
theo Lời Chúa.
- Sóng gió bởi
tội người ta gây ra.
I. SÓNG GIÓ BỞI TIN
LÀM THEO LỜI CHÚA.
Thời Tân Ước :
1/ Đức Maria gặp sóng gió
nặng nề nhất. Vì tin rằng “Chúa sẽ thực
hiện những gì Người đã nói” (x Lc 1,45) ; và tin rằng “Thiên Chúa yêu thế gian đến nỗi đã ban Con Một, để ai tin vào Con của Người thì được
sống muôn đời” (Ga 3,16 : Tung Hô Tin Mừng). Nhất là Chúa đã hứa cho Đức
Maria :
§ Maria được gọi là “Đầy
Ơn Phúc” vì có Chúa ở cùng (x Lc 1,28).
§ Con Đức Maria là Con
Đấng Tối Cao (x Lc 1,32).
§ Con Đức Maria là Vua
thuộc dòng vua Đavid, triều đại Ngài vô cùng vô tận (x Lc 1,32b-33).
Thế mà sau cuộc Truyền Tin, Đức Maria gặp sóng gió càng
ngày càng gia tăng.
§ Ông Giuse, chồng Đức
Maria định tâm ly dị (x Mt 1,18-19).
§ Đức Maria không tìm được
nơi xứng đáng sinh Con, đành đặt Con nằm trong máng cỏ (x Lc 2,7.12).
§ Vua Hê-rô-đê ra lệnh
truy nã Con Đức Maria để giết, thế nên ngay trong đêm Mẹ phải bồng Con trốn
sang Ai Cập (x Mt 2,13t).
§ Đau đớn nhất là vào
ngày Thứ Sáu Tuần Thánh, Đức Maria chứng kiến Con bị treo trên thập giá, thì
tất cả những Lời Chúa hứa trong ngày Truyền Tin đâm vào tim Mẹ, đúng như lời
ông Si-mê-on đã báo trước : “Này, Ngài có
mệnh cớ cho nhiều người bổ nhào và chỗi dậy trong Israel, và làm dấu gợi lên
chống đối” (Lc 2,34). Như vậy là Đức Maria đã hứng chịu Lời Chúa chúc dữ
cho bà Eva sau khi phạm tội : “Bà sinh
con đau” (St 3,16).
2/Các Tông Đồ gặp sóng
gió. Sau khi Chúa Giê-su đã đánh gục thần
chết, Ngài sống lại đến gặp các Tông Đồ và chia chiến thắng cho các ông : “Chúng con cầm rắn trong tay, và dẫu cho uống
nhằm thuốc độc, thuốc độc cũng chẳng hại được chúng con” (Mc 16,18). Thế mà
các Tông Đồ khi thi hành sứ mệnh Chúa trao, các ông vẫn bị ra tù vào khám như
cơm bữa, tất cả đều phải đổ máu vì Tin Mừng để làm chứng cho Chúa!
Như vậy, chỉ tới ngày
cánh chung, ta mới chiếm hữu được phúc lộc Chúa hứa hơn lòng mơ ước. Lúc đó, ta
cùng chung lời với Mẹ Maria : “Chúc tụng
Đức Chúa là Thiên Chúa Israel,
đã viếng thăm dân Người” (Lc 1, 68 : ĐC năm lẻ). Đó là Đức Tin của người
Công Giáo được sinh ra bởi Đức Tin của tổ phụ Abraham : Dù Chúa để cho ông gặp
sóng gió thử thách,nhưng Đức Tin của ông rất vững mạnh, vì tin vào Lời Chúa
chúc phúc cho dòng dõi ông sẽ được thực hiện, đặc biệt vào ngày cánh chung, như
tác giả thư Do Thái đã nhắc đến cách sống đạo của tổ phụ Abraham : “Nhờ Đức Tin, ông Áp-ra-ham đã vâng nghe
tiếng Chúa gọi mà ra đi đến một nơi ông sẽ được lãnh nhận làm gia nghiệp, và
ông đã ra đi mà không biết mình đi đâu.Vì ông trông đợi một thành
có nền móng do chính Thiên Chúa vẽ mẫu và xây dựng.Những người nói
như vậy cho thấy là họ đang đi tìm một quê hương.Và nếu quả thật họ còn nhớ tới
quê hương mình đã bỏ ra đi, thì họ vẫn có cơ hội trở về.Nhưng thực ra các ngài
mong ước một quê hương tốt đẹp hơn, đó là quê hương trên trời.Nhờ
Đức Tin, khi bị thử thách, ông Áp-ra-ham đã hiến tế I-xa-ác; dù đã nhận được
lời hứa, ông vẫn hiến tế người con một.Quả thật, ông Áp-ra-ham nghĩ
rằng Thiên Chúa có quyền năng cho người chết chỗi dậy. Rốt cuộc, ông đã nhận
lại người con ấy như là một biểu tượng” (Dt 11, 1-2.8-19 : Bài đọc năm lẻ).
Vì “tin là cách chiếm hữu những điều còn
trong hy vọng là phương nhận thức các thực tại người ta không thấy” (Dt
11,1).
II. SÓNG GIÓ BỞI TỘI
NGƯỜI TA GÂY NÊN.
Có hai loại :
-
Bởi tội xác thịt yếu đuối của con người, Chúa cho phép xảy ra.
-
Bởi tội con người đưa đến sự chết, Chúa không muốn cho xảy ra.
1/ Bởi tội xác thịt yếu
đuối của con người, Chúa cho phép xảy ra. Cụ thể như thánh
Phao-lô, vị Tông Đồ xuất sắc nhất, cũng bị tính xác thịt nổi loạn, làm cho ông
chới với, như ông thú nhận với giáo đoàn Roma : “Chẳng có gì lành cư ngụ trong tôi, sự thiện tôi muốn, tôi không làm, còn điều dữ tôi ghét,
tôi lại cứ làm” (Rm 7,18-19), và ông đã năn nỉ với Chúa : “Xin Chúa đừng để satan đâm cái dằm vào con”,
đã ba lần ông van xin như thế, nhưng
Chúa chỉ trả lời : “Ơn Ta đủ cho ngươi,vì
quyền năng chỉ được bày tỏ vẹn toàn trong yếu đuối” (2Cr 12,7-10).
Sự yếu đuối về xác thịt
nó là bản năng của con người, đến như vua
thánh Đavid được đặt thay quyền Chúa lãnh đạo dân, mà tính xác thịt của ông đã
nổi loạn, dan díu bất chính với vợ của tướng Uria, vị công thần của đất nước,
rồi dùng mưu thâm độc giết Uria, để chiếm vợ người. Thế mà ông không biết ăn
năn, sám hối, ông chỉ mới nghe ngôn sứ Nathan nói : Có một người giàu bắt chiên
của người nghèo làm thịt, Đavid đã thịnh nộ đòi lấy mạng nó, nếu ông tìm được
đứa bất lương ấy! Ngôn sứ Nathan chỉ ngay vào mặt vua : “Kẻ đó chính là ngài !” Lúc đó, vua Đavid mới giật mình và sám hối.
Dầu ông đã sám hối, tội ấy vẫn gây ra sóng gió:
"Đức Chúa phán thế này: Ta sắp dùng chính nhà
của ngươi mà gây hoạ cho ngươi. Ta sẽ bắt các vợ của ngươi trước mắt ngươi mà
cho một người khác, và nó sẽ nằm với các vợ của ngươi giữa thanh thiên bạch
nhật.Thật vậy, ngươi đã hành động lén lút, nhưng Ta, Ta sẽ làm điều ấy trước
mặt toàn thể Ít-ra-en và giữa thanh thiên bạch nhật." Bấy giờ vua Đa-vít
nói với ông Na-than: "Tôi đắc tội với Đức Chúa." Ông Na-than nói với
vua Đa-vít: "Về phía Đức Chúa, Người đã bỏ qua tội của ngài; ngài sẽ không
phải chết.Thế nhưng vì trong việc này ngài đã cả gan khinh thị Đức Chúa, nên
đứa trẻ ngài sinh được, chắc chắn sẽ phải chết. Còn Đavid, nhờ biết sám hối,
nên Chúa không phạt ông phải chết ! " (2 Sm 11,1-14 : Bài đọc năm chẵn).
Vậy “ngã
vào tội là người ; ở lại trong tội là quỷ” (ngạn ngữ Đức). Chúa không
muốn ai ở lại trong tội giống quỷ, vì người ta được dựng nên giống Thiên Chúa!
(x St 1,26). Thế nên càng biết mình yếu đuối trầm mình trong tội, càng cần đến
hiệp dâng Thánh Lễ và thưa cùng Chúa : “Lạy
Chúa Trời, xin tạo cho con một tấm lòng trong trắng” (Tv 51/50,12a : ĐC năm
chẵn).
2/ Có những loại tội gây sóng gió làm mọi người phải chết, Chúa không muốn
cho nó xảy ra, đó là :
§ Tội không tin vào quyền giáo huấn Chúa đã trao cho Hội
Thánh.
§ Tội làm đảo lộn sứ mệnh Chúa trao phó.
§ Tội không chu toàn sứ mệnh ngôn sứ theo Quy Luật Phụng Vụ
Hội Thánh đã dạy.
a- Tội không
tin vào quyền giáo huấn Chúa đã trao cho Hội Thánh.
Vì Chúa muốn mọi người
phải được cứu độ trong một “chuồng chiên” là Hội Thánh Ngài lập, nhất là phải
tin vào quyền giáo huấn của Hội Thánh mà Chúa Giê-su đã trao (x Mt 11,25-26 ;
16,13-19 ; Ga 18,19-23 ; Gl 1,8), vì không thể tìm được chân lý Đức Tin vẹn
toàn ngoài Hội Thánh. Thế mà, có nhiều kẻ đã không xác tín như thế, họ đã ly
khai với Hội Thánh. Bởi lẽ những người này thấy nhiều người Công Giáo sống
thiếu gương mẫu, không phải chỉ ở nơi giáo dân, mà còn lần lên tới Giáo hoàng.
Do đó, họ không tin là Chúa dùng các chủ chăn trong Giáo Hội để giảng dạy Lời
Chúa, vì vậy họ tách ra thành nhiều giáo phái như ý mỗi người : Nào là Chính Thống,
nào là Tin Lành, nào là Anh Giáo ! Sự cố đau lòng này trái với lời cầu nguyện
của Đức Giê-su cho Hội Thánh Ngài được luôn hiệp nhất : “Lạy Cha, xin cho chúng nên một như Con ở trong Cha và Cha ở trong Con”
(Ga 17,21-23), không biết bao giờ lời cầu nguyện này mới được ứng nghiệm !?
Thảm họa này tệ hơn xưa kia bà Ma-ri-am thấy ông Mô-sê lấy vợ ngoại giáo người
Kush, nên bà không tin Chúa dùng riêng ông để nói Lời Chúa cho dân, bà nói : “Dễ chừng Chúa chỉ phán dạy qua Mô-sê mà thôi
sao, Ngài đã không phán dạy ngang cả chúng ta đó ư ?” Chúa nghe được, Ngài
phạt bà bị cùi tức khắc ! (x Ds 12,1-13)
Loại sóng gió bởi tội mất niềm tin vào chủ chăn trong Hội Thánh nên lập
ra các giáo phái khác, Chúa không muốn nó xảy ra vì nó chỉ làm khổ mọi người,
làm mất vinh danh Chúa ! Thế mà có ai nhận ra sóng gió đó là do bởi tội mình
gây nên, để bắt chính mình phải làm theo ý Chúa qua giáo huấn của Hội Thánh ?!
b- Tội
làm đảo lộn sứ mệnh Chúa trao phó.
Cụ thể các Tông Đồ của
Đức Giê-su vào thời Giáo Hội sơ khai được giáo dân tín nhiệm, họ bán hết tài
sản góp cho các Tông Đồ để chia sẻ đồng đều cho mọi người. Quả thật, bản chất
việc làm này là tốt, vì đã diễn tả thời cánh chung trong Nước Thiên Chúa chẳng
ai thiếu thốn gì. Vì thế, các Tông Đồ mải mê công việc này mà xao nhãng cầu nguyện và giảng Lời, tức là bỏ bổn phận chính yếu
mà làm việc phụ, hậu quả gây sóng gió trong cộng đoàn, các tín hữu bất hòa với
nhau ! Kinh Thánh đã trách : “Nhiều kẻ giữ
đạo hình thức, vì nó loại bỏ điều chính mà làm điều phụ” (2Tm 3,5). Thánh
Augustin nói : “Bạn chạy khỏe lắm đó,
nhưng trật đường mất rồi”. Nhưng sau nhờ Chúa soi sáng cho các Tông Đồ nhận
biết mình sai lầm, nên các ông đã chọn ra bảy người có uy tín trong dân gọi là
Phó tế, để trao việc quản lý tài sản của Giáo Hội và chia sẻ của cải cho mọi
người không ai dư của, không ai túng thiếu ;
còn các Tông Đồ thì trở về với
nhiệm vụ chính là cầu nguyện và giảng Lời, từ bấy giờ Hội Thánh được bình
an và phát triển (x Cv 6,1-7).
Đức Giáo hoàng Gioan
Phao-lô II nói : “Một nỗi nguy hiểm
thường xảy ra nơi các giáo sĩ, là họ quá hăng say trong những công việc của
Chúa, mà quên mất Chúa là Chủ của công việc”. Như vậy các Tông Đồ khi đảo
lộn sứ mệnh được Chúa trao phó trong ngày lãnh Bí tích Thánh Tẩy, đặc biệt là
lãnh Bí tích Truyền Chức, đáng lẽ sứ mệnh được trao thứ tự phải là :
I-
Tư Tế (cầu nguyện) ;
II-
Ngôn Sứ (giảng Lời) ;
III-
Vương Đế (điều hành, quản trị, và
phục vụ cộng đoàn)
Thế nhưng, các Tông Đồ
đã triệt để thi hành sứ mệnh vương đế, và đưa lên hàng ưu tiên (hạng III đưa
lên hạng I). Họ đã chẳng giống Thầy Giêsu, Ngài vốn dĩ là Vua, nhưng xem ra
Ngài không thể hiện quyền Vua. Cụ thể có lần một người xin Ngài can thiệp vào
việc chia gia tài, thì Ngài đã khước từ ! (x Lc 12,13-14), và mặc dù Ngài dư
khả năng cho kẻ đói ăn và chữa lành mọi bệnh tật, nhưng nếu vì việc ấy làm ngăn
trở việc cầu nguyện và giảng Lời, thì Ngài phải trốn nhu cầu của dân mà đi (x
Mc 1,21-39). Đặc biệt vào ngày Thứ Sáu Tuần Thánh, kẻ ác đến bắt Ngài, thì Ngài
tỏ uy quyền, mới chỉ lên tiếng hỏi chúng : “Các
ngươi đi tìm ai?” Chúng trả lời : “Chúng tôi đi tìm Giê-su Nadareth”, Ngài
đáp : “Này Ta đây”, chúng bổ ngửa ra hết! (x Ga 18, 4-6). Nhưng Ngài không dùng
quyền Vua đạp lên chúng mà đi, trái lại Ngài cho chúng đứng dậy xông vào bắt
Ngài. Rõ ràng Đức Giê-su chỉ lo chu toàn hai sứ mệnh Tư Tế và Ngôn Sứ, là cách
Ngài chu toàn sứ mệnh Vương Đế.
Tiếc rằng có chủ chăn
lạm dụng quyền vua của mình, ra vạ Tuyệt Thông hay dứt Phép Thông Công để trói
buộc giáo dân và làm nhục họ ; hoặc có Giám mục không cho phép đồng tế trong
các lễ An Táng của giáo dân, trừ phi người đó là ông cố, bà cố của Linh mục
hoặc tu sĩ. Đối với những người nghèo không có tiền mua bằng Ân Nhân, thì không
bao giờ cha Sở cho phép đồng tế khi qua đời. Nhưng đối với người giàu bỏ tiền
mua bằng Ân Nhân, thì lúc chết, gia đình tha hồ mời các cha đến đồng tế. Hỏi
những việc làm của các chủ chăn như trên, có đúng là thể hiện quyền Vua của
Chúa Giê-su hay không!?
Trong khi đó giáo huấn
của Hội Thánh trong Hiến Chế Phụng Vụ số 27 dạy : “Phải quý chuộng việc cử hành cộng đồng hơn việc cử hành đơn độc và có
vẻ riêng tư. Điều này có giá trị đặc biệt cho việc cử hành Thánh Lễ”.
c- Tội không chu toàn
sứ mệnh ngôn sứ theo quy Luật Phụng Vụ
Hội Thánh đã dạy.
Nhìn vào đời sống Hội
Thánh sau hơn 20 thế kỷ, tỷ lệ người Công Giáo không gia tăng, nhưng lại đi
xuống cách trầm trọng! Dân Chúa hôm nay đang tái diễn cảnh thất bại thời con
cháu Noe xây tháp Babel
: Họ muốn xây tháp chạm Trời, nhưng không thành công, vì không chung một ngôn
ngữ, thế là họ phải tản đi khắp thế giới (x St 11,1-9). Ngày nay nhiều người
Công Giáo đang bỏ đạo, hoặc sang tôn giáo khác, cũng chỉ vì người ta đến Nhà
Thờ nghe nhiều vị giảng cách tự biên tự
diễn, không giảng đúng với quy định về Luật giảng dạy trong Hiến Chế Phụng Vụ :
-
Khi cử hành Phụng Vụ, Kinh Thánh
giữ vai trò tối quan trọng. Thực vậy, Hội Thánh đã trích từ Kinh
Thánh những Bài đọc để diễn giải trong Bài giảng” (số 24).
-
Bài giảng phải căn cứ
vào Thánh Kinh để trình bày các mầu nhiệm Đức Tin và các quy tắc cho đời sống Kitô
hữu trong suốt chu kỳ năm phụng vụ. Bài
giảng rất đáng được coi như một phần của chính Phụng Vụ (số 52).
-
Bài giảng thuộc phần
hoạt động của Phụng Vụ, nên phải có thời giờ
thích hợp để giảng giải…Phải hết sức trung thành chu toàn thừa tác vụ giảng giải đúng với Nghi Lễ. Tiên vàn
bài giảng phải múc lấy từ nguồn Kinh Thánh và Phụng Vụ, vì như thế là rao
truyền việc kỳ diệu của Thiên Chúa trong lịch sử cứu độ (số 35).
Nếu giáo dân đi dự Lễ
bất cứ nhà thờ Công Giáo nào, cũng được nghe lời giáo huấn do các chủ chăn khai
triển từ các bản văn Kinh Thánh, làm đúng Quy Luật Phụng Vụ, như giáo huấn của
Công Đồng Vatican II trong Hiến Chế Phụng Vụ đã dạy như trên, thì chắc chắn
tháp Babel mới càng ngày càng được xây dựng rộng và cao hơn tháp Babel xưa đã
được thể hiện trong ngày lễ Ngũ Tuần, vì khắp mọi dân tộc trên thế giới đều đến
nghe giáo huấn của thủ lãnh Phê-rô, và ai cũng tưởng ông Phê-rô nói tiếng địa
phương của mình, đó là một cộng đoàn đang hoàn tất tháp Babel mới chạm Trời,
cũng chính là được lên Trời được hưởng phúc vinh với Chúa (x St 11. Cv 2).
THUỘC LÒNG
Lạy Chúa là Chúa Tể càn khôn,xin cho những người trông đợi
Chúa đừng vì con mà phải thẹn thùng.Lạy Chúa Trời nhà Ít-ra-en, xin đừng để những
ai tìm kiếm Ngài lại vì con mà mang tủi hổ (Tv 69/68,7).