Đức Giê-su
không chỉ muốn chọn 12 người đàn ông Do Thái làm môn đệ để họ làm việc Tông Đồ
cho Ngài, mà Ngài còn muốn mời gọi muôn dân trên trái đất. Đó là lý do Ngài
chọn 70 hay 72 môn đệ (x Lc 10,1a : Tin Mừng ).Ta biết con số 70 (theo bản văn
tiếng Hipri) hay số 72 (theo bản văn tiếng Hy-Lạp) môn đệ Đức Giê-su chọn là
hình ảnh con cháu ông Noe sau lụt Hồng Thủy (x St 10), mà lụt Hồng Thủy là hình
ảnh tiên báo về Bí tích Thánh Tẩy (x 1Pr 3, 20-21) ; đồng thời số 72 cũng là dòng giống dân
Israel (x Xh 1,5). Do đó những ai đã nhận Bí tích Thánh Tẩy đều thuộc về giống
nòi của Israel mới, để Chúa Giê-su (Giacob mới) có thêm nhiều môn đệ cộng tác
vào việc xây dựng và phát triển Nước Thiên Chúa, như thuở xưa một mình ông
Mô-sê điều hành Israel không nổi, nhạc phụ ông đã khuyên nên chọn lấy 72 vị kỳ
lão để tiếp tay với ông (xXh 18,13t).
Vào thời Tân Ước, hàng giáo sĩ là hiện
thân Nhóm 12 của Đức Giê-su chọn, cũng cần phải được nhiều giáo dân cộng tác.
Bởi thế, trước khi Ngài lìa biệt Nhóm Mười Một về cùng Cha, Ngài truyền lệnh
cho môn đệ đi khắp thế gian tập họp thêm môn đệ cho Ngài bằng hai việc : Làm
Phép Rửa cho họ nhân danh Chúa Cha và Chúa Con và Chúa Thánh Thần, và dạy họ tuân giữ những Lời Chúa Giê-su đã
truyền (x Mt 28, 19-20), thì công việc Mục Vụ của Hội Thánh mới đạt được kết
quả cao.
Vì
thế giáo huấn Công Đồng Vat.II trong Hiến Chế Hội Thánh số 35 dạy : “Giáo dân có thể và phải có một hoạt động cao
quý là truyền bá Tin Mừng cho thế giới cả những lúc họ bận tâm lo lắng việc
trần thế”. Loan báo Tin Mừng có khi phải trực tiếp, có khi gián tiếp cộng
tác, giúp đỡ các chủ chăn. Đan cử : Thánh Phao-lô đã nhận ra nơi ông Ti-mô-thê
có Đức Tin sâu xa, phong phú và vững chắc, vì ngay khi còn nhỏ, ông đã ngồi
trong lòng bà ngoại, cụ Lô-ít, hoặc trong vòng tay mẹ, bà Êu-ni-kê, được nghe giáo lý. Nhất là từ khi ông được ông Phao-lô đặt tay
trong Nghi Lễ tấn phong Giám mục. Từ đó, ông Ti-mô-thê đã nhận được Thần Khí
đầy sức mạnh, tình thương, biết tự chủ, nên không còn nhút nhát, không hổ thẹn
làm chứng cho Chúa. Ông Ti-mô-thê đã đồng lao cộng khổ với ông Phao-lô loan báo
Tin Mừng, nhất là lúc ông Phao-lô ngồi trong tù (x 2Tm 1, 1-8 : Bài đọc). Như
thế, ông Phao-lô và ông Ti-mô-thê đã thực hành lời kinh : “Hãy kể cho muôn dân biết những kỳ công Chúa làm” (Tv 96/95,3 : Đáp
ca). Đó là cách các ông chu toàn sứ mệnh : “Chúa
đã sai tôi đi loan báo Tin Mừng cho kẻ nghèo hèn, công bố cho kẻ bị giam cầm
biết họ được tha” (Lc 4,18 : Tung Hô Tin Mừng).
2/ LÀM TÔNG ĐỒ LÀ LÀM CHỨNG CHO SỰ THẬT.
Đó là lý do Đức Giê-su sai từng hai người môn đệ đi làm việc Tông Đồ (x
Lc 10,1b : Tin Mừng). Không phải chỉ nhằm để họ giúp đỡ nhau, mà “đôi chứng nhân”
có ý nhấn mạnh : làm Tông Đồ là đi loan báo sự thật. Vì theo theo luật Do-Thái,
một điều được xác định là chân lý, phải có ít là hai người chứng (x Dnl 19,15),
hầu tất cả công việc được đoán định do miệng hai, ba nhân chứng (x Mt 18,16). Nhưng chứng của
hai hay nhiều người có khi còn gia tăng sự gian ác, như các chứng gian trong
phiên tòa xử Đức Giê-su ! Vậy “cặp chứng nhân” chỉ có gía trị khi người Tông Đồ
của Chúa ý thức sống những điều sau :
Mến Chúa phải yêu người (x Mt 22,34).
- Đời này
đạt đời sau (x Lc 19,9).
Sống được những đòi hỏi như trên là dọn chỗ tâm hồn đồng loại để Chúa Giê-su đến ban phát ơn cứu độ (x Lc 10,1b).
3/ NGƯỜI TÔNG ĐỒ XIN CHỦ RUỘNG SAI THỢ ĐI GẶT LÚA.
Đức Giê-su
nói : “Lúa chín đầy đồng mà thợ gặt lại
ít” (Lc 10,2a : Tin Mừng).
Thợ gặt ít : Suốt ba năm Đức Giê-su chọn và huấn luyện các Tông Đồ (Nhóm 12). Thế
mà khi Ngài về trời, chỉ còn 11 người được Ngài sai đi. Đấy là thiếu về lượng!
Còn về phẩm chất, Đức Tin thiếu mới đáng lo. Đan cử trong số những người Đức
Giê-su sai đi, có kẻ còn hoài nghi! (xMt 28,16-17).
Muốn thêm người tham gia việc Tông Đồ, muốn bớt hoài nghi về Đức Tin, ta
cần phải tích cực loan báo Tin Mừng, để quy tụ thêm nhiều người đến gặt lúa
Nước Thiên Chúa, tức làm là cho nhiều
người đón nhận được ơn cứu độ từ Hy Tế của Chúa Giê-su thiết lập, như Lời Đức
Giê-su nói : “Bốn tháng có qua, mùa màng
mới đến ! Này : Ta bảo các ngươi hãy ngước mắt lên mà nhìn : đồng lúa đã chín
vàng chờ gặt ! Rồi kìa thợ gặt lĩnh công và thu lượm hoa mầu cho sự sống đời
đời, để cho kẻ gieo một thể cùng người gặt đều hoan hỷ. Vì đây lời tục ngữ cũng
thật : Người này gieo kẻ khác gặt ! Ta sai các ngươi đi gặt điều các ngươi
không vất vả làm ra ! Có những kẻ khác đã vất vả rồi, còn các ngươi đã đến thừa
hưởng công lao của họ” (Ga 4, 35-38).
Normal
0
false
false
false
MicrosoftInternetExplorer4
Lý do Đức Giê-su nói : “Bốn tháng
có qua mùa màng mới đến” là vì người Do Thái xuống giống vào tháng 11 đến
12 (mùa Giáng Sinh) ; mùa gặt vào giữa tháng 4 (mùa Phục Sinh). Thế thì từ mùa
Giáng Sinh đến mùa Phục Sinh là bốn tháng, đây là thời cao điểm Đức Giê-su thực
thi chức Tư Tế của Ngài trên trần gian, rồi Ngài về ngự bên hữu Chúa Cha hằng
chuyển cầu cho tất cả những ai đến tham dự Thánh Lễ mà Hội Thánh làm hiện tại
hóa Hy Tế của Chúa Giê-su. Cho nên đi dự Lễ là gặt hái hoa trái cứu độ được Đức
Giê-su cùng các thánh vất vả làm ra “mùa lúa chín vàng”.
Thế mà có mấy người biết quý trọng Thánh Lễ, đúng là mùa lúa chín thiếu thợ gặt ! Thật là chua xót đối với Đức
Giê-su, mới hơn 20 thế kỷ nay, những người mang danh Công Giáo nhất là bên Âu
Châu hầu hết bỏ dự Lễ và càng không quan tâm đến việc rước lễ, không gặt hái
mùa lúa chín vàng do Đức Giê-su và bao nhiêu chứng nhân đã vất vả trồng hạt
Lời, và tưới bón bằng máu thịt của mình, để có mùa lúa chín chờ người gặt.
4/ MUỐN LÀM TÔNG ĐỒ, PHẢI ĐƯỢC HỘI THÁNH SAI ĐI.
Đức Giê-su dạy : “Chúng con hãy
xin chủ mùa sai thợ ra gặt lúa về” (Lc 10,2b : Tin Mừng). Cụ thể qua đời
sống ông Phao-lô, là một Biệt phái rất nhiệt thành thờ Chúa theo Luật Mô-sê,
ông đã trở thành kẻ giết Chúa Giê-su Phục Sinh (x Cv 9,4). Nhưng khi được Ngài
chộp lấy, huấn luyện và sai ông đi làm vườn nho cho Ngài, ông mới ý thức về tầm
quan trọng việc Tông Đồ mà Ngài trao cho Hội Thánh, ông nói :“Làm sao họ kêu cầu Đấng họ không tin? Làm
sao họ tin Đấng họ không được nghe? Làm sao mà nghe, nếu không có ai rao giảng?
Làm sao mà rao giảng, nếu không được sai đi ?” (Rm 10,14-15a). Với lòng xác
tín như trên, ông Phao-lô trước khi đi truyền giảng Tin Mừng, ông đã đến gặp
các thủ lãnh của Hội Thánh để nhận quyền Sai Đi, bằng không việc phục vụ của
ông trở nên vô ích (x Gl 2,1-2)
5/ CON ĐƯỜNG TÔNG ĐỒ LÀ CON ĐƯỜNG CHÔNG GAI.
Đức Giê-su dạy : “Thầy sai anh em
đi như chiên vào giữa bầy sói” (Lc 10,3 : Tin Mừng). Niềm tin “ở hiền gặp
lành” chỉ có thể thấy đúng trong thế giới Phục Sinh. Còn đời này phải biết rằng
: “Ai càng thiết tha sống chân lý, càng
gặp nhiều chống đối, nhiều kẻ ghét, và cuối cùng cô đơn !” Ta cứ nhìn vào
mẫu gương sống của Đức Giê-su : Ai thánh thiện bằng Ngài ? Ai thương người bằng
Ngài ? Thế mà Đức Giê-su làm Tông Đồ cho Chúa Cha chưa tròn 3 năm, thì chính
những kẻ đã từng thụ ơn lại đồng lõa giết Ngài ! Trên thập gía, Ngài nhìn xuống
tìm những người đã thụ ơn, họ đều trốn mất! Chỉ còn lại bọn chế diễu Ngài !
Ngài cất tiếng kêu cứu nơi Chúa Cha, nhưng Cha Ngài im lặng! Đến nỗi Đức Giê-su
phải thốt lên : “Lạy Thiên Chúa tôi, lạy
Thiên Chúa tôi, nhân sao Người lại bỏ tôi!” (Mt 27,46).
Thánh Phao-lô cũng nói lên sự cô đơn này : “Vì anh Đê-ma đã bỏ tôi, bởi yêu mến thế gian này; A-lê-xan-đê, người
thợ rèn, đã gây cho tôi nhiều khốn khổ;
Khi tôi đứng ra tự biện hộ lần thứ nhất, thì chẳng có ai bênh vực tôi.
Mọi người đã bỏ mặc tôi. Xin Chúa đừng chấp họ. Nhưng có Chúa đứng bên cạnh,
Người đã ban sức mạnh cho tôi, để nhờ tôi mà việc rao giảng được hoàn thành, và
tất cả các dân ngoại được nghe biết Tin Mừng” (2 Tm 4,10a.14a.16-17). Loan
báo Tin Mừng có chấp nhận gian khổ mới thực sự là phục vụ vì yêu, chứ không
phải vì thương mại, và lời rao giảng đến đổ máu mới minh chứng điều ta nói là
chân lý quan trọng nhất.
Thánh Tông Đồ ý thức con đường theo Chúa là thế, nên ông đã nói : “Ước chi tôi chẳng hãnh diện về điều gì,
ngoài thập gía Đức Giê-su Ki-tô, Chúa chúng ta!” (Gl 6,14). Bởi đó nếu ta theo Đức Giê-su chỉ
dừng chân ở thập giá thì ta là kẻ khốn nạn nhất trên đời (1Cr 15,19), nên ta
phải hướng về mầu nhiệm Phục Sinh. Chính ông Gióp lúc quá khổ, không thể lý
giải sự đau khổ của mình bằng lý luận loài người. Đau khổ của ông cũng như của
loài người chỉ có thể hiểu lý do, ý nghĩa và hiệu quả trong thế giới Phục Sinh,
nên ông nói : “Tôi biết rằng Đấng bênh
vực tôi vẫn sống, và sau cùng, Người sẽ đứng lên trên cõi đất. Sau khi da tôi
đây bị tiêu huỷ, thì với tấm thân, tôi sẽ được nhìn ngắm Thiên Chúa. Chính tôi
sẽ được ngắm nhìn Người, Đấng mắt tôi nhìn thấy không phải người xa lạ.Lòng tôi
những tha thiết mong chờ” (G 19,25-27).
Bởi vậy, chỉ trong mầu nhiệm Phục Sinh, “tôi vững vàng tin tưởng sẽ được thấy ân lộc Chúa ban, trong cõi đất
dành cho kẻ sống” (Tv 27/26,13).
6/ TÔNG ĐỒ PHẢI SỐNG TINH THẦN NGHÈO KHÓ.
Đức Giê-su dạy : “Đừng mang theo
túi tiền, bao bị, giày dép.” (Lc 10,4a : Tin Mừng). Nghĩa là phải sống theo
gương Đức Giê-su : “Ngài vốn dĩ là Đấng
giàu có, nhưng vì chúng ta, Ngài đã trở nên nghèo khó, để chúng ta được giàu
có, nhờ sự nghèo khó của Ngài !” (2
Cr 8,9). Thì người môn đệ của Đức Giê-su cũng phải cần cù làm việc để có thu
nhập cao, đạt chỉ tiêu giàu có giống Đức Giê-su, nhưng vì phục vụ Tin Mừng mà
ta trở nên nghèo để đồng loại được giàu có về Đức Tin ; còn ta chấp nhận nghèo
khó như Thầy Giêsu không có nơi ngả đầu (x Lc 9, 58).
Vậy người môn đệ Đức Giê-su hãy sống nghèo cách cụ thể như Ngài dạy
- Đừng mang theo túi tiền, bao bị, giày dép! (x Lc 10,4a : Tin
Mừng).- Người ta cho ăn uống thức gì, thì anh em dùng thức đó, vì làm
thợ thì đáng được trả công. Đừng đi hết nhà nọ đến nhà kia. Vào bất cứ thành
nào mà được người ta tiếp đón, thì cứ ăn những gì người ta dọn cho. (Lc 10, 7-8
: Tin Mừng).
- Chính Chúa mới là gia nghiệp đời mình. (x Tv
16/15,5)
7/ LÀM TÔNG ĐỒ LÀ ĐI CẤP CỨU NGƯỜI.
Đức Giê-su dạy : “Đừng chào hỏi ai
dọc đường” (Lc 10,4b : Tin Mừng). Lời căn dặn này nhắc lại cho ta chuyện
ngôn sứ Ê-ly-sa sai đầy tớ là anh Ghêkhaji, cầm gậy của thầy chạy mau đến nhà
bà lớn thành Su-nem để đặt gậy lên xác con trai bà, làm cho cậu hồi sinh. Đó là
việc cấp bách, nên ngôn sứ Ê-ly-sa dặn đầy tớ : “Đừng chào hỏi ai” (x 2V 4,18-37). Thế thì việc loan báo Tin Mừng là
hành động cứu cấp đồng loại thoát tay tử thần, nên không còn để ý đến việc chào
hỏi hay từ giã ai (x Lc 9, 61t). Nghĩa là không có gì làm bận tâm để phải trì
hoãn việc loan báo Tin Mừng.
Vì mục đích việc loan báo Tin Mừng là để cho ai có trái tim biết nghe,
thì Lời Chúa sẽ thanh tẩy tội lỗi tâm hồn họ (x Ga 15,3), để đưa họ gia nhập
Hội Thánh, qua dấu chỉ các Tông Đồ chữa lành những người đau yếu trong thành,
mà chữa lành bệnh chính là đã tha tội cho họ, cất nguyên nhân gây ra bệnh (x Ga
9,2),và nói với họ : “Triều đại Thiên
Chúa (Hội Thánh) đã đến gần các ông” (Lc 10,9 : Tin Mừng)
8/ MUỐN ĐƯỢC BÌNH AN PHẢI LOAN BÁO TIN MỪNG.
Đức Giê-su dạy : “Vào bất cứ nhà
nào, trước tiên hãy nói : “Bình an cho nhà này !” Nếu ở đó, có ai đáng hưởng
bình an, thì bình an của anh em sẽ ở lại với người ấy ; bằng không thì bình an
sẽ trở lại với anh em” (Lc 10,
5-6 : Tin Mừng). Rõ ràng việc rao giảng Tin Mừng luôn luôn phát sinh sự bình an
: Ai biết đón nhận Tin Mừng, sự bình an đến với họ ; bằng không sự bình an trở
về cho sứ giả Tin Mừng. Nói cách khác, làm Tông Đồ là đem bình an cho môi trường sống và phát
sinh bình an trong nội tâm người loan báo. Bởi vì chính Lời Chúa có sức mạnh
ban ơn, như Chúa nói : “Mưa với tuyết sa
xuống từ trời không trở về trời nếu chưa thấm xuống đất, chưa làm cho đất phì
nhiêu và đâm chồi nẩy lộc,cho kẻ gieo có hạt giống, cho người đói có bánh
ăn,thì lời Ta cũng vậy, một khi xuất phát từ miệng Ta, sẽ không trở về với Ta
nếu chưa đạt kết quả, chưa thực hiện ý muốn của Ta,chưa chu toàn sứ mạng Ta
giao phó.” (Is 55,10-11). Do đó thánh Phao-lô qủa quyết rằng : “Lời Thiên Chúa, anh em đã đón nhận, không
phải như lời người phàm, nhưng như Lời Thiên Chúa, đúng theo bản tính của Lời
ấy. Lời đó tác động nơi anh em là những tín hữu.” (1Tx 2,13).
THUỘC LÒNG