BÀI GIẢNG
THÁNH THỂ
MẠC KHẢI VỀ DANH THIÊN CHÚA
Đối
với dân Do Thái, tên của một người là diễn tả về lý lịch, bản tính, sứ mệnh,
hay tầm quan trọng hoạt động của người đó.
Thí
dụ
-
Giêsu có nghĩa là Thiên
Chúa Cứu Độ (x Mt 1,21).
-
Maria có nghĩa là được
yêu, bà chủ, bà chúa (x Lc 1,27).
-
Gioan có nghĩa Thiên
Chúa là Đấng thương xót (x Lc 1, 13).
-
Phêrô có nghĩa là Đá Tảng,
Đức Giêsu xây dựng Hội Thánh Ngài trên Đá Tảng này (x Ga 1,42 ; Mt 16,18).
Khi ông Môsê được Thiên Chúa tuyển chọn làm người
giải phóng dân Do Thái thoát ách nô lệ Ai Cập, lúc ấy ông là kẻ thất thế, vì
ông đã giết một người Ai Cập, nên bị nhà vua ra lệnh truy nã, ông phải trốn lên
rừng giả dạng là người chăn chiên, làm sao ông có khả năng đối đầu với một đế
quốc hùng mạnh, làm sao ông có uy tín nói với dân Do Thái để họ nghe theo. Do
đó, để tạo uy tín đối với dân, ông Môsê phải hỏi tên Đấng sai ông, để biết Ngài
là ai, hầu nói với dân tin theo ông. Chúa đã mạc khải Danh của Ngài cho ông : “Ta là YAHWEH (Giavê)”, có nghĩa là “Đấng Hằng Hữu” hoặc “Ta là Ta” (x Xh 3,13-16 ; 6,3).
Người Do Thái xưa muốn tôn trọng danh Thiên Chúa, họ
không dám gọi tên Ngài là Giavê, mà gọi Ngài là Ông Chủ : ADONAI ; thì anh em
Tin Lành cũng sợ không dám gọi danh Thiên Chúa hay danh Adonai,mà gọi là
Yehova. Từ này ghép bởi những phụ âm của từ Yahweh và nguyên âm của từ Adonai
(phụ âm của Yahweh là chữ y, h, w ; nguyên âm của Adonai là a, o, khi ghép
những chữ này lại thì a đổi thành e, w đổi thành v), thành ra từ Yehova (đúng
ra là Yahowa).
Như thế người Do Thái và Tin Lành rất sợ Thiên Chúa,
nên không dám gọi chính danh của Ngài ; trái lại đối với người Công Giáo nhờ
được Chúa Thánh Thần soi sáng hiểu về Danh Chúa (Yahweh) qua bảy lần Đức Giêsu mạc
khải trong Tin Mừng Gioan :
1/ TA LÀ BÁNH HẰNG
SỐNG! Ai đến với Ta sẽ không hề đói, và kẻ tin vào Ta sẽ không hề khát bao giờ
(Ga 6,35 : Tin Mừng).
Thánh
Lễ hôm nay Hội Thánh cho ta đọc Cv 8,1-8 để diễn tả người ăn Bánh trường sinh
không còn đói khát : Người ta ném đá Phó tế Stephano cho đến chết. Họ tưởng làm
như thế là diệt được Lời ban sự sống cho thế gian. Thế nhưng cái chết của ông Stephano
được thông hiệp với cuộc Tử Nạn của Đức Giêsu thì, cùng được chia phần chiến
thắng Phục Sinh với Ngài, ông như một tấm bánh bẻ ra phân phát cho nhiều người,
bởi lẽ sau khi người ta ném đá ông,các tín hữu phân tán khắp nơi,đi tới đâu họ
cũng giảng Tin Mừng. Như vậy, vì ông Stephano đã được kết hợp với Chúa Giêsu
Thánh Thể mà cuộc tử nạn của ông diễn tả sức sống bất diệt của người đã ăn Bánh
đích thực của Chúa Giêsu ban. Vì thế các tác giả Tin Mừng đã ghi lại việc Đức
Giêsu hóa bánh và cá nuôi dân là báo trước về mầu nhiệm Thánh Thể, thì không
phải chỉ duy Đức Giêsu bị giết chết vì rao giảng Tin Mừng, và Ngài sống lại để
trở thành Bánh nuôi mọi người, mà còn có cả chứng nhân của Ngài như ông Gioan
Tẩy Giả cũng chết vì sứ mệnh ngôn sứ. Đó là lý do tác giả Nhất Lãm đã ghi nhận cái
chết của ông Gioan Tẩy Giả trước việc Đức Giêsu hóa bánh nuôi dân (x Mt 14,
1-21 ; Mc 6, 17-44 ; Lc 9, 7-17), nhằm báo hiệu các chứng nhân của Chúa Giêsu
cũng phải chấp nhận đau khổ đến mất mạng vì phục vụ Tin Mừng, để nói được như
thánh Phaolô : “Tôi vui sướng trong các
nỗi thống khổ chịu vì anh em, và trong thân xác tôi, tôi bù đắp những gì còn
thiếu nơi các nỗi quẫn bách Đức Kitô phải chịu vì Thân Mình Ngài là Hội Thánh”
(Cl 1,24).
2/ TA LÀ ÁNH SÁNG
THẾ GIAN! Ai theo Ta sẽ không phải đi trong tối tăm, nhưng sẽ có ánh sáng sự
sống (Ga 8, 12).
Nhờ
Chúa Giêsu Phục Sinh, Ngài đưa ta ra khỏi vùng tối tăm, có nghĩa là ta không
còn sống trong tội lỗi, vì được mặc lấy khí giới sự sáng (x Rm 13,12). Do đó ai
lưu lại trong Chúa Giêsu Phục Sinh là Ánh Sáng, thì người ấy không thể phạm
tội, không còn thuộc về tối tăm (1Ga 3,6).
Vì Chúa
Giêsu là ánh sáng ban sự sống nên ông Zacarya diễn tả Chúa Giêsu là “Mặt Trời từ cao xanh đến viếng thăm ta, soi
sáng những kẻ ngồi trong tối tăm bóng chết, và hướng chân ta thẳng đường bình
an” (Lc 1,78-79). Kinh Thánh dùng
hình ảnh mặt trời để diễn tả Thiên Chúa là ánh sáng ban sự sống. Ánh sáng mặt
trời vừa tiêu diệt vi trùng trong không khí, vừa làm cho các loài thụ tạo có sự
sống được tồn tại và phát triển, đặc biệt đối với con người nhờ ánh sáng soi
đường chỉ lối cho người ta làm việc, cũng như không đi lầm đường mà rớt xuống
vực thẳm.
3/ TA LÀ CỬA
RÀN CHIÊN! Bao nhiêu kẻ đã đến trước Ta hết thảy đều là trộm là cướp ; nhưng
chiên đã không nghe chúng. Ta là cửa vào! Ai ngang qua Ta mà vào thì sẽ được
cứu ; nó sẽ vào, sẽ ra, và sẽ gặp được lương thực (Ga 10, 7b-9).
Lời
khẳng định này Đức Giêsu có ý nhấn mạnh : Ngoài Danh Ngài, không có danh nào
đem ơn cứu độ cho loài người (x Cv 4,12). Các mục tử trước Ngài như Abraham,
Đavid, các Ngôn sứ, những vị này chỉ giới thiệu, chuẩn bị lòng người để người
ta tin vào Chúa Giêsu Phục Sinh. Cho nên ai tin vào các vị đó mà không thuộc về
Đức Kitô, thì chỉ là trộm là cướp chiên của Đức Giêsu. Chính vì vậy, Đức Giêsu đã
hai lần mạc khải Ngài là cửa ràn chiên (Ga 10,7.9), và chiên của Ngài được đặt
giữa hai cửa (Ga 10,8), thì chiên được gìn giữ an toàn.
4/ TA LÀ MỤC
TỬ TỐT LÀNH! Người chăn chiên tốt thí mạng sống mình vì chiên. Kẻ làm công thì
không hẳn là chủ chiên, và không có chiên làm của mình, thì vừa thấy sói tức
khắc bỏ chiên mà chạy trốn, và sói bắt chiên và làm tán loạn. Ấy là vì hắn là
kẻ làm công, và không màng gì đến đoàn chiên. Ta là người chăn chiên tốt (Ga
10,11.14a).
Ở đây
ta lại thấy hai lần Đức Giêsu xác nhận: “Ta
là Mục Tử tốt lành” (c 11 và 14a). Hai câu này như hai vòng tay người mục
tử tốt ôm lấy đàn chiên, bảo vệ, gìn giữ thoát mọi sự dữ! Khác hẳn với kẻ chăn
thuê, gặp sói dữ thì bỏ chiên chạy thoát thân !
5/ TA LÀ SỰ
SỐNG LẠI VÀ LÀ SỰ SỐNG ! Ai tin vào Ta thì dù có chết cũng sẽ được sống, và mọi
kẻ sống cùng tin vào Ta thì không phải chết bao giờ (Ga 11,25-26).
Ta
biết chữ “và” trong ngôn ngữ Hy Lạp báo trước một điều quan trọng. Vì vậy dù
được Đức Giêsu cho sống lại như con gái ông Giairo,con trai bà góa thành Naim, anh
Ladaro (x Mc 5,35t ; Lc 7,11t ; Ga 11,1t), cũng không quan trọng, bởi lẽ họ còn
phải chết, chưa có sự sống đời đời. Chỉ ai được thông hiệp với sự sống của Chúa
Giêsu Phục Sinh nhờ lãnh Bí tích Khai Tâm (Thánh Tẩy,Thêm Sức,Thánh Thể), thì
dầu thân xác họ có chết vì tội, họ vẫn được sống lại vinh quang giống Chúa Giêsu
trong ngày cánh chung.
6/ TA LÀ ĐƯỜNG
VÀ LÀ SỰ THẬT, SỰ SỐNG ! Không ai đến với Cha mà lại không nhờ Ta (Ga
14,6).
Đường
đi thì không quan trọng,nhưng đường dẫn đến sự thật, sự sống mới là quan trọng.
Vì thế chữ “và” đã được đặt trước sự thật, sự sống để nhấn mạnh rằng chỉ có
Chúa Giêsu Phục Sinh mới dẫn chúng ta đi vào con đường sự thật đạt sự sống đến
cùng Chúa Cha : được cứu độ.
7/ TA LÀ CÂY
NHO ĐÍCH THỰC, VÀ CHA TA LÀ NGƯỜI CANH TÁC! Nhánh nào trong Ta không sinh quả,
Người chặt nó đi ; còn nhánh nào sinh quả thì Người tỉa sạch để nó sinh quả
nhiều hơn… Ta là cây nho đích thực, ai không lưu lại trong Ta, thì bị quăng ra
ngoài như nhánh nho và khô đi (Ga 15,1-5).
Cuối
cùng lại hai lần Đức Giêsu mạc khải “Ta
là cây nho đích thực” (Ga 15,1.5). Hai lời này mở đầu và kết thúc : ai ở
trong Chúa Giêsu thì như ngành liền thân nho sinh nhiều hoa trái, kẻ không liền
vào thân nho là Chúa Giêsu, thì tự khô héo.
Nhìn
vào bảy lần Đức Giêsu mạc khải về danh Chúa “Ta Là”: Mở đầu “Ta
là BÁNH” (Ga 6,35), kết thúc
“Ta
là NHO” (Ga 15,1). Bánh và nho là dấu chỉ về Bí tích Thánh Thể. Vậy qua
mầu nhiệm Thánh Thể ta được kết hợp nên một Chúa Giêsu, thì được lãnh nhận trọn
vẹn sự sống vinh quang dồi dào nơi Thiên Chúa. Khác với thuở xưa người Do Thái
cứ thắc mắc danh Chúa “Ta Là”, “Ta Có”, thì Ngài là gì, Ngài có gì,
người ta khắc khoải để được hiểu biết về Thiên Chúa và được thông phần sự “Có”
của Ngài, nhưng không được! Mãi đến thời Tân Ước, ai nhờ kết hợp Chúa Giêsu Phục
Sinh qua Bí tích Thánh Thể, thì:
a- Ta là người được Chúa Giêsu Phục Sinh tái tạo nên
hoàn hảo. Vì số 7 chỉ về tuần Sáng thế.
b- Ta có ơn Chúa dồi dào. Thánh Gioan nói “họ được lãnh nhận hết ơn này đến ơn khác”
(Ga 1,16). Vì con số 7 chỉ về sự phong phú ơn Thiên Chúa ban, như Chúa ban ơn
qua 7 Bí tích, 7 ơn Chúa Thánh Thần.
c-
Ta được Chúa
Giêsu cho sống cách dồi dào như Thiên Chúa (x Ga 10,10; 6,57), vì Ngài là Bánh
đích thực, Bánh hằng sống (x Ga 6,35) : Mạc khải lần I ; được thoát khỏi vòng
tội lỗi, tham dự vào sự sống Phục Sinh, vì Chúa Giêsu là ánh sáng ban sự sống (x
Ga 8,12) : Mạc khải lần II; được Chúa canh giữ khỏi mọi sự dữ, vì Ngài là cửa
ràn chiên (Ga 10,7-9) : Mạc khải lần III ; được Chúa Giêsu hiến cả mạng sống
cho ta được sống, vì Ngài là Mục Tử nhân lành (x Ga 10,11-14) : Mạc khải lần IV
; được sống vinh quang bất diệt, vì Ngài là sự sống lại (x Ga 11,25) : Mạc khải
lần V ; được về hưởng hạnh phúc cùng Cha trên trời, vì Chúa Giêsu là đường sự
thật dẫn đến sự sống (Ga 14,6) : Mạc khải lần VI ; và làm được nhiều việc tốt
lành hơn Chúa Giêsu (Ga 14,12), lưu lại mãi đến sự sống đời đời, vì Chúa Giêsu
là cây nho, ta là ngành (Ga 15,1-5) : Mạc khải lần VII.
Bởi vậy Đức Giêsu đã xác nhận: “Tất cả những ai tin vào Người Con, thì được sống muôn đời, và tôi sẽ
cho họ sống lại trong ngày sau hết” (Ga 6,40:Tung Hô Tin Mừng). Như thế Đức
Giêsu muốn cả loài người phải được dự tiệc Thánh Thể, mới thực là tin vào Ngài
để được sống muôn đời,dầu có chết cũng được sống lại vinh quang như Thiên Chúa,
làm cho “cả trái đất tung hô Thiên Chúa”
(Tv 66/65,1 : Đáp ca).
Ngày
21-07-1969, hai phi hành gia người Mỹ đã đổ bộ xuống mặt trăng.
Anh
Amstrong đạo Tin Lành, gởi ngay một bức điện về trái đất : “Trời xanh tường thuật vinh quang Thiên Chúa,
không trung loan báo việc tay Người làm.”
(Tv 19/18,2).
Còn Adryan,
người Công Giáo, anh vội mở hộp đựng Mình Thánh Chúa và rước Lễ.
Như
thế lần đầu tiên hai phi hành gia đã đưa hai Lương Thực chính của bàn tiệc
Thánh Lễ lên mặt trăng :
-
Một anh viết Lời Chúa :
Tv 19/18, 2 trên tấm bảng mica và cắm trên mặt trăng.
-
Một anh rước Mình Thánh
Chúa, bảo đảm cho anh được sống đời đời, khi anh bước ra khỏi trái đất sang một
hành tinh khác.
THUỘC LÒNG
Ta là bánh sự sống, ai đến với Ta không hề
đói, và kẻ tin vào Ta không hề khát bao giờ (Ga 6,35).
http://phaolomoi.net
LM. GIUSE
ĐINH QUANG THỊNH