BÀI ĐỌC 1 VÀ 2 (NẾU CÓ)
BÀI ĐỌC : Cv 4, 32-37
32 Các
tín hữu thời bấy giờ đông đảo, mà chỉ có một lòng một ý. Không một ai coi bất
cứ cái gì mình có là của riêng, nhưng đối với họ, mọi sự đều là của chung.
Nhờ quyền năng mạnh mẽ Thiên Chúa ban, các
Tông Đồ làm chứng Chúa Giê-su đã sống lại. Và Thiên Chúa ban cho tất cả các ông
dồi dào ân sủng.
Trong cộng đoàn, không ai phải thiếu thốn, vì
tất cả những người có ruộng đất nhà cửa, đều bán đi, lấy tiền,35 đem
đặt dưới chân các Tông Đồ. Tiền ấy được phân phát cho mỗi người, tuỳ theo nhu
cầu.
Ông Giô-xếp, người được các Tông Đồ đặt tên là
Ba-na-ba, nghĩa là người có tài yên ủi, có một thửa đất. Ông là một thầy Lê-vi
quê quán ở đảo Sýp.37 Ông bán đất đi, lấy tiền đem đặt dưới chân các
Tông Đồ.
ĐÁP CA : Tv
92
Đ. Chúa
là Vua hiển trị, Chúa mặc oai phong tựa cẩm bào. (c 1a)
1ab Chúa
là Vua hiển trị, Chúa mặc oai phong tựa cẩm bào, Người lấy dũng lực làm cân
đai.
1c Chúa
thiết lập địa cầu, địa cầu không lay chuyển.2 Ngai vàng Chúa kiên cố
tự ngàn xưa:
Ngài hiện hữu tự muôn ngàn đời.
3 Sóng
nước đã gầm lên, lạy Chúa, sóng nước đã gầm lên tiếng thét gào. Sóng nước đã
gầm lên, long trời lở đất.
5 Lạy
Chúa, thánh chỉ Ngài thật là bền vững, nơi đền vàng rực lên toàn thánh thiện
triền miên qua mọi thời.
BÀI GIẢNG
CHÚA GIÊSU,
ĐẤNG CỨU ĐỘ DUY NHẤT
(Cv 4,12)
Để xác
tín như thánh Phêrô, vị Giáo hoàng tiên khởi nói : “Vì dưới gầm trời này, không có một danh nào khác đã được ban cho nhân
loại, để chúng ta phải nhờ vào danh đó mà được cứu độ" (Cv 4,12), khởi
đi từ Bí tích Thánh Tẩy, ta phải tìm hiểu ý Chúa qua các Bài đọc được công bố trong
Thánh Lễ hôm nay.
- Hiểu Lời Chúa qua
phương pháp loại suy.
- Hiểu về tương quan giữa
các tôn giáo.
- Ơn tái sinh khởi đi từ
đâu và ai nói cho ta biết ?
- Người Công Giáo phải là
tấm bánh Chúa dùng nuôi người khác.
I. HIỂU LỜI CHÚA QUA PHƯƠNG PHÁP LOẠI SUY.
Phương
pháp loại suy giúp ta phải suy ra những ý nghĩa trong ngôn ngữ và hình ảnh Kinh
Thánh dùng, để loại đi những điều không hợp mầu nhiệm Nước Thiên Chúa, và chỉ
đón nhận những gì phù hợp với giáo lý Hội Thánh mà thôi. Bởi vì đến như thánh
Phaolô đã được Chúa cho lên đến tầng trời thứ ba, khi trở về trần gian, ông chỉ
có thể nói được rằng : “Tôi được nghe
những lời khôn tả, người phàm không được phép nói lại” (2Cr 12,2-4). Có
nghĩa là không có ngôn ngữ hình ảnh nào trên trần gian có thể dùng diễn tả hết
được những điều tuyệt vời nơi Quê Trời. Vì ở trần gian khác hẳn với Thiên Đàng.
Trong khi đó Đức Giêsu muốn cho con người hiểu về mầu nhiệm Nước Thiên Chúa thì,
Ngài lại phải dùng ngôn ngữ, hình ảnh, văn hóa của loài người. Mà loài người
muốn có tư tưởng truyền đạt cho nhau cứ phải bám vào vật hữu hình. Thí dụ ta
nói cái này nặng quá, thì người nghe nghĩ ngay đến cục đá ; ta nói cái này nhọn
quá, người nghe liên tưởng đến mũi kim ; ta nói cái này tròn quá, thì người
nghe đương nhiên như nhìn thấy trái banh trước mặt; hoặc một người đến Việt Nam
muốn hiểu người VN, thì phải nói phải hiểu theo văn hóa của người Việt. Thí dụ
tôi nói : tôi phải đi khám bác sĩ, thì người nghe phải hiểu rằng tôi đang bị
bệnh, tôi phải đến bác sĩ khám bệnh cho tôi ; hoặc tôi nói : chúc anh chị trăm
năm hạnh phúc, thì đôi tân hôn đó phải hiểu rằng suốt đời mình được hạnh phúc,
chứ không phải sống trên trăm năm là bất hạnh. Cũng thế, ta vào rừng nói chuyện
với dân tộc thiểu số, nếu ta nói với họ về một vật rất lớn, thì ta phải nói cái
đó lớn hơn trái đất so với mặt trời, trong khi đó khoa học dạy ta biết mặt trời
lớn hơn trái đất 50 lần.
Bởi
vậy, Đức Giêsu nói với ông Nicôđêmô về ơn tái sinh : “Ông đừng ngạc nhiên vì tôi đã
nói: các ông cần phải được sinh ra một lần nữa bởi ơn Trên. Gió muốn thổi đâu
thì thổi; ông nghe tiếng gió, nhưng không biết gió từ đâu đến và thổi đi đâu.
Ai bởi Thần Khí mà sinh ra thì cũng vậy." (Ga 3,7-8:Tin Mừng). Ở
đây Đức Giêsu dùng hình ảnh gió để chỉ về Chúa Thánh Thần, Thiên Chúa Ngôi thứ
Ba, Ngài được ví như gió, nhưng Ngài
lại không phải là không khí vật chất. Tuy nhiên gió làm cho người ta sống, gió
đến đâu hay đi đâu không ai thấy được thì, Chúa Thánh Thần cũng làm cho người
ta được sống và không ai thấy Ngài.
Vậy
muốn hiểu Kinh Thánh cho đúng,phải nghe Hội Thánh dạy ta hiểu những phạm trù
nào Kinh Thánh dùng để diễn tả về mầu nhiệm Nước Thiên Chúa, phạm trù nào phải
loại trừ. Không ai được lấy ý riêng mình mà giải thích Kinh Thánh ngoài Đức Tin
truyền thống của Hội Thánh, khởi đi từ thời các Tông Đồ. Đó là lý do thánh Phêrô
nói: “Anh em phải biết điều này: không ai
được tự tiện giải thích một lời ngôn sứ nào trong Sách Thánh.Quả vậy,lời ngôn
sứ không bao giờ lại do ý muốn người phàm, nhưng chính nhờ Thánh Thần thúc đẩy
mà có những người đã nói theo lệnh của Thiên Chúa” (2Pr 1,20-21).
II. HIỂU VỀ TƯƠNG QUAN GIỮA CÁC TÔN GIÁO.
Đức
Giêsu nói : “Không ai đã lên trời, ngoại trừ
Con Người, Đấng từ trời xuống” (Ga 3,13 : Tin Mừng).Hội Thánh dạy ta phải
xác tín thế này
1- Mọi tôn giáo ngoài Kitô giáo đều phát xuất từ trái
đất, từ lòng người (số 2), hy vọng dạy con người vươn lên tới cõi Vĩnh Phúc (1).
Trong khi đó Kitô giáo từ Trời hay từ nơi Vĩnh Phúc (1) xuống trái đất, vào
lòng người (2), để làm cho những thực tại ở trái đất được giống thực tại ở trên
Trời, như Đức Giêsu đã dạy trong kinh Lạy Cha : “Xin cho ý Cha thể hiện dưới đất
cũng như trên Trời” (Mt 6,10).
2-
Giá trị các tôn giáo khác đưa hạnh phúc con người lên cao hay thấp tùy theo
những Chân Lý trong Đạo đó phù hợp nhiều hay ít với những Chân Lý trong Giáo Lý
của Hội Thánh Chúa Kitô.
3-
Chỉ có Kitô giáo từ nguồn Hạnh Phúc Vĩnh Cửu (Trời) đến với con người, và cũng
chỉ nhờ Hội Thánh Chúa Kitô là Thân Mình Mầu Nhiệm của Ngài dẫn ta về Trời
nguồn Vĩnh Phúc. Vì “Chúa là Vua hiển
trị, mặc oai phong tựa cẩm bào” (Tv 93/92,1 : Đáp ca).
Vậy
Chúa Giêsu hay Hội Thánh Công Giáo phải là điểm tới, điểm hội tụ, giá trị mọi
tôn giáo nếu có phải đồng quy về Chúa Giêsu qua Hội Thánh của Ngài. Nói cách
khác, các tôn giáo khác như vòng tròn có chung một tâm là Chúa Giêsu. Tôn giáo
nào nhiều Chân Lý phù hợp với giáo huấn của Hội Thánh, tôn giáo đó càng gần
Chúa Giêsu hơn. Vì chỉ có Chúa Giêsu là Thầy dạy muôn dân (x Mt 23,10), nên chỉ
có Ngài mới có quyền nói : “Ai thuộc về
sự thật thì nghe tiếng tôi” (Ga 18,37).
III. ƠN TÁI SINH KHỞI ĐI TỪ ĐÂU VÀ AI NÓI CHO TA BIẾT
?
1- Con người được Thiên Chúa tái sinh do Ba
Ngôi Thiên Chúa mạc khải, như Đức Giêsu nói : “Chúng Tôi có biết, Chúng Tôi mới nói, và Chúng Tôi thấy Chúng Tôi mới
làm chứng” (Ga 3,11: Tin Mừng). Như thế, Đức Giêsu dựa vào Luật của người
Do Thái để xác nhận một sự thật buộc mọi người phải tin: “Chứng của một người không đáng
tin,nhưng chứng của hai ba người trở lên thì phải tin”(Dnl 19,15). Do
đó, danh “Chúng Tôi” Đức Giêsu dùng là chỉ về Ba Ngôi Thiên Chúa thực hiện cuộc
tái sinh cho bất cứ ai tin Đức Giêsu là Thiên Chúa, như Ngài đã truyền cho các
môn đệ : “Anh em hãy đi và làm cho muôn
dân trở thành môn đệ, làm Phép Rửa cho họ nhân danh Chúa Cha và Chúa Con và
Chúa Thánh Thần” (Mt 28,19).
2- Việc
tái sinh con người nhờ, với, trong Chúa Giêsu
khởi đi từ nước trong tim Ngài dốc ra khi bị đâm trên thập giá (x Ga 19,34).
Vì thế Đức Giêsu nói với ông Nicôđêmô : “Như
ông Môsê đã giương cao con rắn trong sa mạc, Con Người cũng phải bị giương cao như vậy, để ai tin vào
Người thì được sống muôn đời” (Ga 3,14-15 : Tung Hô Tin Mừng).
Ta
lưu ý ba lần Đức Giêsu loan báo cuộc Khổ Nạn, theo Tin Mừng Gioan ghi lại : Lần
I, Ngài nói “Ta bị gương cao như con rắn”,
nghĩa là Ngài phải chết vì tội người ta đã
nghe rắn Satan xúi giục ; lần II : “Khi
các ngươi nhắc Con Người lên cao,
các ngươi biết Ta là Chúa” (Ga 8,28), tức là Ngài bị giết vì người Do Thái
không nhận biết Ngài là Thiên Chúa, nên kết án Ngài phạm thượng, đã tự xưng
mình bằng Thiên Chúa, khi Ngài bị đóng đinh treo trên thập giá, viên sĩ quan
Roma mới nhận ra Ngài là Con Thiên Chúa (x Mc 15,39) ; lần III : “Khi Ta được
giương cao khỏi mặt đất, Ta sẽ lôi kéo mọi sự lên với Ta” (Ga 12,32),
là Ngài bằng lòng chết vì vâng Lời Chúa Cha, thể hiện tình yêu tuyệt đối vì cứu
loài người, nhằm tập họp mọi sự dâng lên Chúa Cha (x Bản dịch của Cha Nguyễn
Thế Thuấn).
Thời
dân Do Thái còn đi trong sa mạc tiến về đất Hứa, họ bị rắn cắn, Chúa bảo ông Môsê
đúc con rắn đồng treo lên cây cột, hễ ai bị rắn cắn mà nhìn lên con rắn đồng
thì được sống (x Ds 21,4-9). Đó là hình ảnh tiên báo về Đức Giêsu bị treo trên
thập giá, để những kẻ có tội biết sám hối mà nhìn lên Đức Giêsu xin Ngài thương
xót như anh trộm lành, thì được Ngài cho vào Thiên Đàng ngay (x Lc 23,43), nhất
là thực hành lời thánh Phêrô dạy : “Anh
em hãy sám hối, và mỗi người hãy chịu Phép Rửa nhân danh Đức Giêsu Kitô, để
được ơn tha tội ; và anh em sẽ nhận được ân huệ là Thánh Thần” (Cv 2,38), hơn
thuở xưa Chúa lấy xương thịt ông Adam tạo nên bà Eva, cho làm vợ ông (x St
2,21-24).
IV. NGƯỜI CÔNG GIÁO PHẢI LÀ TẤM BÁNH CHÚA DÙNG NUÔI
NGƯỜI KHÁC.
Các
tín hữu thời Giáo Hội sơ khai cho chúng ta mẫu gương sống Đạo. Ông Luca ghi
nhận: Các tín hữu tôn trọng nhau thể hiện bằng việc chăm sóc nhau. Cụ thể ai có đất
đai hay nhà cửa thì bán đi và đem giá cả các vật bán được mà đặt dưới chân các
Tông Đồ để phân phát cho mỗi người ai nấy tùy theo nhu cầu của mình, không còn
ai phải túng thiếu (x Cv 4,34-37 : Bài đọc). Ở đây ta lưu ý dân đưa tiền của đặt dưới chân các Tông Đồ, chứ không
đặt vào tay các ngài, vì người ta ý thức rằng của cải vật chất chỉ là bệ kê
chân con người nhắc lên gần Thiên Chúa, còn bàn tay của họ, là bàn tay đón Chúa
và phân phát ơn Ngài. Chính vì vậy mà giáo lý Hội Thánh trong Điều răn V (Điều răn mới trong sách Giáo Lý số 2041-2043)
dạy con cái mình phải biết dùng tiền của đóng góp cho những nhu cầu của Hội
Thánh tùy theo Đức Tin và lòng Mến, để Hội Thánh có điều kiện làm phát triển
Tin Mừng và, tạo nên những phương tiện phục vụ nhu cầu dân Thiên Chúa.
Ông
John Rockfeller năm 33 tuổi, tài sản ông chỉ có vỏn vẹn 1.000 dollars cùng với
cây xà-beng đi đào giếng mướn cho người ta, dần dần ông mua được một đàn bò,
rồi nhiều đàn bò, bán bò ông mua nông trại, bán nông trại ông làm chủ một cơ sở
lớn nhất nước Mỹ vào tuổi 43. Nhưng không may đến với ông khi ở tuổi 53 : ông bị bệnh
rụng hết tóc đầu! Hội Đồng Bác sĩ bảo ông chỉ sống thêm một năm nữa! Báo chí
đưa hình hói đầu của ông lên trang nhất và chế giễu: “Ông không đủ tiền mua một sợi tóc!” Tỉnh ngộ ông bắt chước ông Giakêu
: đưa tài sản chia sẻ cho các cơ quan từ thiện, cho những chương trình nghiên
cứu Khoa học để phục vụ con người. Kết qủa ông đã sống thọ đến 98 tuổi (thay vì
54 như bác sĩ chẩn đoán).
Hãng
Thông Tin Công Giáo Thế Giới loan đi ngày 02/03/2007 : Ông Fred Nassiri, một
nhà tỷ phú ở nước Mỹ, ông là người gốc Iran theo đạo Hồi. Nhưng khi ông trở lại
Công Giáo, ông dâng tất cả tài sản cho Dòng Phanxico khó khăn và xin gia nhập
Dòng. Người ta phỏng vấn ông tại sao ông làm thế ? Ông trả lời : “Càng
nhiều của cải, càng có nhiều nghĩa vụ với người xung quanh”.
Giáo
sư Alfred Adler nói : “Kẻ nào không quan tâm tới người khác,chẳng
những nó gặp nhiều khó khăn trên đời, mà còn là kẻ gây tác hại cho xã hội”.
Vậy ta hãy noi gương Mẹ
Maria đoán ý muốn người khác để phục
vụ (x Lc 1,39t ; Ga 2,3).
Thánh Phaolô dạy : Hãy khó với mình nhưng quảng đại với Chúa
và đồng loại (x 2Cr 6,12-13).
THUỘC LÒNG.
Tôi sống, nhưng không còn phải là tôi, mà
là Đức Kitô sống trong tôi. Hiện nay tôi sống kiếp phàm nhân trong niềm tin vào
Con Thiên Chúa, Đấng đã yêu mến tôi và hiến mạng vì tôi. (Gl 2,20)
http://phaolomoi.net
Lm GIUSE ĐINH QUANG
THỊNH