BÀI GIẢNG
CANH TÂN CÁCH SỐNG ĐẠO
MỚI THỰC
LÀ TRỞ VỀ VỚI CHÚA
Qua các Bài đọc trong Thánh Lễ
kính cuộc Trở Về của Tông Đồ Phao-lô và ý nghĩa của cuộc Trở Về cho chúng ta ba
điểm giáo lý cần suy gẫm và đem ra thực hành :
- Sức mạnh nào phá hủy Hội Thánh Chúa mạnh nhất.
- Ai là người cần phải trở về với Chúa trước nhất ?
- Hiệu quả cuộc trở về nhắm đạt yêu cầu nào ?
I. SỨC MẠNH NÀO
PHÁ HỦY HỘI THÁNH CHÚA MẠNH NHẤT.
Nhìn vào lịch sử Hội Thánh từ thời
sơ khai đến nay, cho chúng ta kinh nghiệm về sự tàn phá trong Hội Thánh, do không làm đúng sứ mệnh và không canh tân Đức
Tin :
1/ KHÔNG LÀM ĐÚNG SỨ
MỆNH.
Cụ thể vào thời Giáo Hội sơ khai,
các Tông Đồ đã bỏ bê cầu nguyện và giảng
Lời vì bận tâm lo việc phục vụ bàn ăn. Cụ thể các Tông Đồ được giáo dân tín
nhiệm, họ bán hết tài sản góp cho các ngài để chia sẻ đồng đều cho mọi người.
Quả thật, bản chất việc làm này là tốt, vì đã diễn tả thời cánh chung trong
Nước Thiên Chúa chẳng ai thiếu thốn gì. Vì thế, các Tông Đồ mải mê công việc
này mà xao nhãng cầu nguyện và giảng Lời,
tức là bỏ việc chính mà làm việc phụ, hậu quả gây sóng gió trong cộng đoàn, các
tín hữu bất hòa với nhau ! Kinh Thánh đã
trách: “Nhiều kẻ giữ đạo hình thức, vì nó
loại bỏ điều chính mà làm điều phụ” (2Tm 3,5). Thánh Augustin nói: “Bạn chạy khỏe lắm đó, nhưng trật đường mất
rồi”. Chúa soi sáng cho các Tông Đồ nhận biết mình sai lầm, nên các ông đã
chọn ra bảy người có uy tín trong dân gọi là Phó tế, để trao việc quản lý tài
sản của Giáo Hội và chia sẻ của cải cho mọi người không ai dư của, không ai
túng thiếu ; còn các Tông Đồ thì trở về với nhiệm vụ chính là cầu nguyện và giảng Lời,
từ bấy giờ Hội Thánh được bình an và phát triển (x Cv 6,1-7).
Nhìn vào đời sống Hội Thánh từ hơn
20 thế kỷ nay, dù biết rằng các vị chủ chăn đã được trao sứ mệnh : “1-Tư Tế, 2-Ngôn sứ, 3-Vương đế”. Nhưng
trong thực tế, hầu hết các ngài đã làm đảo lộn: “3-Vương đế, 1-Tư tế, 2-Ngôn
sứ”, nghĩa là hàng giáo sĩ đã biến sứ mệnh thành cơ cấu để tỏ uy quyền, hầu
những kẻ dưới luôn luôn phải lệ thuộc vào “cụ”. Vì “cụ” chỉ muốn bảo gì cũng
phải nghe, sai gì cũng phải làm, phải trái hậu xét ! Bởi thế, các “cụ” không
còn đủ giờ chu toàn sứ mệnh Tư Tế (cầu nguyện) và Ngôn Sứ (giảng Lời). Sống như
thế chẳng giống Chúa Giê-su chút nào. Đức Giê-su vốn dĩ là Chúa, là Vua, nhưng
Ngài không thể hiện quyền Vua của Ngài để khuất phục ai, như Ngài khước từ can
thiệp việc chia gia tài cho một người đến xin Ngài đứng ra phân xử trong gia
đình họ (x Lc 12,13-14), hoặc không để nhiều giờ chữa bệnh, trừ quỷ, lấn lướt
việc cầu nguyện và giảng Lời. Mà có lúc Ngài phải trốn nhu cầu của dân để có
giờ chu toàn sứ mệnh Tư Tế (cầu nguyện) và Ngôn Sứ (giảng Lời) [x Mc 1,32-39]. Như
thế Chúa Giê-su chu toàn hai sứ mệnh này, thì Ngài đã chu toàn sứ mệnh Vương Đế.
Đức cố Giáo hoàng Gioan Phaolo II đã cảnh báo: “Mối nguy thường xuyên nơi các chủ
chăn trong Hội Thánh là năng nổ, đắm chìm vào những công việc của Chúa, nhưng
lại quên mất Chúa là Chủ của công việc”. Câu nói này Đức Giáo hoàng
muốn nhấn mạnh: các mục tử say sưa, nỗ lực để điều hành mọi sinh hoạt của cộng
đoàn, bề ngoài xem ra sinh động và thành công, nhưng đời sống cầu nguyện và sứ
mệnh giảng dạy thì thiếu sót. Chính việc cầu nguyện và giảng Lời mới là Chúa
của công việc.
Bởi thế, giáo huấn của Công Đồng
Vat.II trong Hiến Chế Phụng Vụ số 86 dạy: “Các
Linh mục miệt mài với công việc mục vụ thánh, càng cần phải sốt sắng chu toàn
các giờ Kinh Phụng Vụ ngợi khen, nếu càng ý thức sống động hơn rằng mình phải
tuân giữ lời căn dặn của thánh Phao-lô: “Hãy cầu nguyện không ngừng” (1Tx
5,17) ; vì chưng chỉ một mình Chúa mới có thể ban hiệu quả, và sự tiến triển cho công
việc họ làm, Chúa đã phán: “Không có Thầy, các con không thể làm được việc gì” (Ga 15,5). Vì thế, khi thiết lập hàng Phó tế, các Tông Đồ đã nói: “Về phần chúng
tôi, chúng tôi sẽ chuyên tâm đến việc cầu nguyện và giảng dạy” (Cv 6,4)”.
2/ KHÔNG CANH TÂN
ĐỨC TIN.
Cụ thể nhất là bám víu vào truyền thống Đức Tin của tiền
nhân, mà không canh tân đời sống đạo theo giáo huấn của Hội Thánh Chúa Ki-tô:
Thực vậy, ông Sau-lô vì quá say mê và tự mãn truyền thống Đức Tin của cha ông
dựa trên Luật Mô-sê và giáo huấn của các ngôn sứ, ông cho đó đã là tuyệt hảo,
nên khi ông thấy nhiều người Do-Thái đã bị các môn đệ của ông Giê-su “dụ dỗ”
sửa đổi Luật Mô-sê để theo đạo ông Giê-su, làm cho ông Sau-lô tức cuồng, nên
ông lãnh trát của các thượng tế ở Giê-ru-sa-lem phóng về Đama gặp bất cứ ai theo
giáo lý của các môn đệ ông Giê-su, là Sau-lô ra tay triệt hạ !
Vì lòng thành của ông muốn bảo vệ
đạo Chúa, nhưng ông đã sai lầm ! Ông không hiểu rằng Luật Mô-sê và giáo huấn
các tiên tri chỉ trở nên hoàn hảo và thực hữu nhờ mầu nhiệm Tử Nạn và Phục Sinh
của Chúa Giê-su. Do đó, Chúa Giê-su dủ lòng thương xót ông: Ngài quật ngã ông ngay
trên đường đang xông tới Đama. Sau khi ông được nghe tiếng Chúa hỏi tội, và Ngài
mạc khải cho ông biết rằng: giết những người Công Giáo chính là giết Giê-su! Từ
đó, ông theo học giáo lý nơi các Tông Đồ.
Con mắt Đức Tin của ông mới được bừng mở, và ông trở nên môn đệ rất xuất
sắc của Chúa Giê-su, không thua kém các Tông Đồ thượng đẳng (x Cv 22,3-16: Bài
đọc ; 2Cr 11,5).
Nhìn vào tình trạng của Hội Thánh
trên toàn thế giới hôm nay, nhiều người Công Giáo dần dần bỏ đạo, hoặc sang tôn
giáo khác, hoặc không thiết tha gì đến dự Phụng Vụ của Hội Thánh, kể cả lễ Chúa
nhật và lễ Trọng, họ cũng tỏ ra thờ ơ lãnh đạm ! Đan cử đài Chân Lý Á Châu loan
tin ngày 05/01/2010 về tình trạng Giáo Hội Công Giáo tại Hòa Lan:
“Cách đây nửa thế kỷ, Hòa Lan là
một nước Công Giáo vững mạnh, có sức truyền giáo. Nhưng ngày nay (2010), 41%
người Hòa Lan tuyên bố vô tôn giáo ; 58% không còn biết lễ Giáng Sinh là gì! Như thế 41% + 58% = 99% mất Đức Tin !! Đa số nhà thờ Công Giáo ở
Hòa Lan biến thành ký túc xá, tiệm buôn bán, thành nhà thờ Hồi Giáo ! Tâm hồn
giới trẻ trống rỗng về Đức Tin, nhưng không biết hỏi ai, vì thiếu người giảng
dạy ! Một số Linh mục dòng Đaminh và Linh mục dòng Tên chủ trương dâng Lễ không
cần Linh mục, chỉ cần giáo dân quy tụ cùng dâng Lễ là được. Giáo Hội Công Giáo
Hòa Lan đang có nguy cơ biến mất !”
Sự cố này đang diễn ra không phải
chỉ ở Hòa Lan, mà còn ở hầu hết ở các nước có nền văn hóa Ki-tô giáo trước đây
vững mạnh, nay suy sụp mỗi ngày thêm trầm trọng hơn, cũng chỉ vì đa số các chủ
chăn lại đi vào vết chân “truyền thống” của các tiền nhân. Ngày nay, chúng ta
cứ nhìn vào sinh hoạt của các cộng đoàn dân Chúa, phần lớn giáo dân sống đạo
bắt chước người khác, mà không cần biết đúng hay sai với giáo lý Hội Thánh đã
dạy. Đan cử một số vấn đề:
§ Có cần phải xây đài Đức Mẹ ở cuối
Nhà Thờ hay không? Trong Nhà Thờ nào cũng có đặt tượng Đức Mẹ, thế thì cuối Lễ
tại sao không cùng nhau cầu nguyện với Đức Mẹ trong Nhà Thờ? Không lẽ Đức Mẹ ở
Đài thì linh hơn hay sao? Nếu thế thì đừng nên đặt Đức Mẹ trong Nhà Thờ nữa,
bởi vì Mẹ trong Nhà Thờ cảm thấy cô đơn hoặc người ta thiếu tin tưởng?!
§ Các bảng Tạ Ơn luôn khắc câu “Con Tạ
Ơn Đức Mẹ” hoặc “Con Tạ Ơn thánh
Giuse”. Như thế có đúng Đức Tin hay không ? Vì “ngoài Chúa ra không ai có thể lãnh nhận ơn gì” (x Ga 3,27),và Đức
Tin Công Giáo luôn luôn xác tín: “chính
nhờ Đức Ki-tô, cùng với Đức Ki-tô và trong Đức Ki-tô, mọi chúc tụng và vinh
quang mới quy về Chúa” (Rm 11,36). Thế thì đáng lẽ mọi bảng Tạ Ơn phải ghi
“Con
Tạ Ơn Chúa qua lời chuyển cầu của Đức Mẹ” hoặc “Con Tạ Ơn Chúa, vì Ngài đã nhận
lời cầu của thánh Martin” v.v… Nếu ta cứ bắt chước nhau để bảng Tạ Ơn
như người khác quen làm, là cách ta gán cho các đấng thánh đã cướp quyền Thiên
Chúa !
§ Lấy tên địa danh nơi Đức Mẹ hiện
ra để đặt tên cho Đức Mẹ, có hay không? Người ta thường bỏ tên Maria (tiếng Do Thái là Miryam, tiếng
gốc cổ Ai Cập là Mri, có nghĩa là được
yêu mến. Thời Tân Ước, tự nguyên bình dân dựa trên tiếng Aram (Mara), có
nghĩa là chủ, chúa, bà. Nên Maria có nghĩa là bà chủ).
Tên Mẹ Thiên Chúa hay như thế, và
Đức Giê-su cũng từng gọi Mẹ Ngài bằng tên này. Tại sao nay người ta bỏ đi? Đức
Maria không phải là nhân vật thần thoại, mà là con người lịch sử,được Thiên
Chúa chọn trong dân tộc Do Thái. Thì ta cứ phải tạc tượng Mẹ Maria theo mẫu
người phụ nữ Do Thái mới hợp lý. Bởi vì Thiên Chúa không chọn một phụ nữ ở dân
tộc khác, không chọn phụ nữ Việt Nam để làm tượng Đức Mẹ đội khăn
đống áo dài! Nếu muốn nhớ ơn Đức Mẹ hiện ra ở Lộ Đức, ở La-Vang, ở Fatima, thì ta gọi là Mẹ Maria Lộ Đức, Mẹ Maria La-Vang,
Mẹ Maria Fatima… Nếu cứ bắt chước nhau lấy địa danh nơi Mẹ hiện ra để đặt cho
Mẹ, thì chúng ta hãy cầu xin Mẹ chớ khi nào Mẹ vô ý hiện ra ở địa danh Lạc
Quần, Lạc Đạo, thì người làm tượng không thể diễn tả về Mẹ Lạc Quần, Mẹ Lạc Đạo
được!? Và dân ngoại không thể nhận ra người Công Giáo chỉ có một người Mẹ duy
nhất là Đức Maria, Mẹ Thiên Chúa, Mẹ Hội Thánh.
Và còn rừng vấn đề khác tương tự
như trên. Hỏi ai có trách nhiệm phải làm cho giáo dân diễn tả đúng Đức Tin của
mình?
Các chủ chăn lẽ ra phải bắt chước
Chúa Giê-su ưu tiên chu toàn hai sứ mệnh Tư Tế và Ngôn Sứ để quy tụ muôn dân về
cho Chúa. Chính vì vậy mà giáo huấn của Công Đồng Vat.II trong Sắc Lệnh Đào Tạo
Linh Mục số 4 dạy: “Phải huấn luyện chủng sinh trở thành những mục tử chăn dắt các linh hồn
theo gương Chúa Giê-su là Thầy Linh Mục và là Chủ Chăn. Vậy để chu toàn chức vụ
rao giảng Lời Chúa, họ phải được chuẩn bị để mỗi ngày hiểu Lời mạc khải của Chúa
hơn, để nhờ suy gẫm, thấm nhuần và diễn tả trong lời nói cùng cách sống. Họ
phải được chuẩn bị chu toàn chức vụ Phụng Tự và thánh hóa: để thi hành công
việc cứu rỗi qua Hy Tế Thánh Thể và các Bí tích bằng lời cầu nguyện, và nghiêm
chỉnh cử hành các Nghi Lễ Phụng Vụ”. Bởi thế Sắc Lệnh Chức Vụ Và Đời
Sống Linh Mục số 4, đã nhắc nhở các chủ chăn: “Dân Chúa được quy tụ trước nhất
là nhờ Lời Thiên Chúa hằng sống, Lời này phải đặc biệt tìm thấy trên môi miệng
các Linh mục, bởi vì các Linh mục mắc nợ dân về Lời Chúa”.
Để giúp cho các mục tử chu toàn sứ
mệnh Tư Tế và Ngôn Sứ, giáo huấn của Công Đồng Vat.II trong Hiến Chế Phụng Vụ
đã dạy:
-
“Khi cử hành Phụng Vụ, Kinh Thánh giữ vai trò tối quan trọng. Thực vậy, Hội Thánh đã
trích từ Thánh Kinh những Bài đọc để dẫn
giải trong bài giảng” (số 24).
-
HeHiw5HieHI“ Bài giảng phải căn cứ vào Thánh Kinh để
trình bày các mầu nhiệm Đức Tin và các qui tắc cho đời sống Kitô hữu trong suốt
chu kỳ năm phụng vụ. Bài giảng rất đáng
được coi như một phần của chính Phụng Vụ” (số 52).
-
“Bài giảng thuộc phần hoạt động của Phụng Vụ, nên phải có thời giờ thích hợp để giảng giải… Phải
hết sức trung thành chu toàn thừa tác vụ giảng
giải đúng với Nghi Lễ. Tiên vàn bài giảng phải múc lấy từ nguồn Kinh Thánh
và Phụng Vụ , vì như thế là rao truyền việc kỳ diệu của Thiên Chúa trong lịch
sử cứu độ” (số
35).
Nếu giáo dân đi dự Lễ bất cứ nhà
thờ Công Giáo nào, cũng được nghe lời giáo huấn do các chủ chăn khai triển từ
các bản văn Kinh Thánh, làm đúng với Quy Luật Phụng Vụ, như giáo huấn của Công
Đồng Vatican II đã dạy như trên, thì chắc chắn tháp Babel mới càng ngày càng
được xây dựng rộng và cao chạm tới Trời (dân được cứu độ) khởi đi từ ngày lễ
Ngũ Tuần: con cháu Noe đã tản đi khắp nơi từ thời xây tháp Babel thất bại, vì họ
không nói chung một ngôn ngữ (x St 11,1-9), nay tụ về để cùng nghe và nói một
ngôn ngữ của Hội Thánh do ông Phê-rô (Giáo hoàng) loan báo (x Cv 2). Thế nên “anh em hãy đi khắp tứ phương thiên hạ mà loan báo Tin Mừng” (Mc
16,15: Đáp ca). Vì Chúa nói: “Thầy đã
chọn anh em từ giữa thế gian, để anh em ra đi,sinh được hoa trái, và hoa trái của anh em tồn tại” (Ga 15,16: Tung
Hô Tin Mừng).
II. AI
LÀ NGƯỜI CẦN PHẢI TRỞ VỀ VỚI CHÚA TRƯỚC NHẤT ?
Cuộc trở về của thánh Phao-lô, không
phải là nhắm trở về trong lãnh vực luân lý, đạo đức – vì ông Phao-lô là một
Biệt phái rất gương mẫu trong việc giữ Luật Mô-sê, trổi vượt xa nhiều đồng
chủng, đồng trang lứa với ông (x Gl 1,14) – Mà cuộc trở về của ông Phao-lô nhấn mạnh đến việc canh tân, đổi mới về
mặt Đức Tin, để lôi kéo, tập họp nhiều người về cho Chúa !
Chân lý này đã được Đức
Giê-su nói trong “Dụ ngôn con chiên bị lạc” (x Lc 15,4-7). Nếu ta cắt nghĩa dụ ngôn
này theo nghĩa đen, thì thật là vô lý ! Vì người nuôi chiên, ai cũng mong vắt
được nhiều sữa, lấy được nhiều thịt, đạt kinh tế cao. Thế thì 99 con chiên
không lạc làm cho chủ có nhiều lợi tức hơn, vậy tại sao chủ không vui mừng khi
99 chiên không lạc, mà lại rất vui khi một con trở về, liệu nó có đem lại nhiều
lợi tức cho chủ hơn 99 con kia không ?!
Bởi đó, muốn hiểu đúng ý nghĩa và
giá trị của dụ ngôn Chiên Lạc, bắt buộc ta phải hiểu:
- 99 con chiên không lạc là các Tông Đồ được Đức Giê-su chọn khi Ngài còn sống trên dương thế !
- 01 con chiên lạc trở về ràn chiên của chủ, đó chính là ông Phao-lô.
Thực vậy, khi ông Phao-lô trở về
đoàn chiên Hội Thánh, ông đã trở thành một Tông Đồ xuất sắc không thua kém “các
Tông Đồ thượng đẳng”, hơn cả về lượng, hơn cả về phẩm chất (x 2Cr 11,5).
Vì thế, thánh Tông Đồ đã khoe với
ông Ti-mô-thê, môn đệ ông rằng: “Đức
Giê-su bước vào trần gian để cứu những
người tội lỗi, trong số đó tôi là người thứ nhất !” (1Tm 1,15) Người thứ
nhất ở đây không phải là người đầu tiên được Chúa cứu, mà là mẫu trở về với Đức
Giê-su cho tất cả mọi người. Hiểu như
thế, chúng ta mới biết giá trị câu nói của Đức Giê-su : “Khi người tội lỗi ăn năn sám hối trở về, thì cả tầng trời rúng lên vì
niềm vui mừng!” (Lc 15,7a). Thế thì :
§ Trong gia đình, người bố là chiên đầu đàn, như sách Huấn ca 30, 4 nói: “Người bố dù có tắt thở ông cũng chưa chết,
vì ông đã để lại con cái giống hệt ông!” Người bố ở đây không chỉ quy trách
nhiệm riêng cho người chồng, mà là hết những ai có trách nhiệm giáo dục trong
gia đình: ông bà, mẹ, anh chị, người bảo hộ, đều phải canh tân đời sống Đức Tin
như thánh Phao-lô.
§ Trong một giáo xứ, cha Sở là chiên đầu đàn. Thánh Gio-an Ma-ri-a Vi-a-ney nói: “Linh mục thánh thiện, thì giáo dân đạo đức
; Linh mục đạo đức, thì giáo dân tầm
thường ; Linh mục tầm thường, thì giáo dân ra quỷ!” Vậy nếu Linh mục mà ra
quỷ, thì giáo dân còn độc ác hơn quỷ vương Beelzebul !!
§ Trong địa phận, Giám mục là chiên đầu đàn. Thánh Au-gút-tin nói: “Làm Giám mục cho anh em, tôi rất lo sợ, làm
tín hữu với anh em, tôi rất an tâm. Vì Giám mục chỉ là một chức vụ, tín hữu mới
là một ân phúc. Giám mục là một danh hiệu nguy hiểm, tín hữu là một danh hiệu
đem ơn cứu độ!” (x HCHT số 32) Nói kiểu của cha Gioan Maria Vianey thì: “Nếu Giám mục tầm thường thì hàng Linh mục
trong địa phận ra quỷ !”
Chính vì vậy mà bất cứ Thánh Lễ
nào, sau lời Truyền Phép, lời cầu nguyện đầu tiên là cho Giám mục thủ lãnh
(Giáo hoàng), và Giám mục địa phận, vì
các vị này mới là người quyết định làm cho Hội Thánh được bốc lên.Bởi vì mỗi
giáo phận là một Hội Thánh vẹn toàn, vì Giám mục là hiện thân Tông Đồ của Đức
Giê-su, là thầy dạy Đức Tin. Nên việc
canh tân sống đạo của mọi thành phần trong Giáo phận hoàn toàn lệ thuộc vào
Giám mục địa phận. Do đó nếu có giáo dân
hay Linh mục nào giống thánh Phao-lô, thì cũng chỉ là “đèn chói mắt”, làm nhức
đầu người khác ! Nhưng nếu Giám mục là một Phao-lô mới, thì sẽ làm bốc lên sức
sống đạo của dân Chúa trong địa phận, trở thành bó đuốc sáng, thành đèn hải
đăng soi dẫn muôn dân tìm về ràn chiên của Đức Giê-su ! Thực là buồn cho Hội
Thánh Chúa, suốt hơn 20 thế kỷ nay, mới chỉ có một Giám mục Phao-lô mà thôi !
III. HIỆU QUẢ CUỘC TRỞ VỀ NHẮM ĐẠT YÊU CẦU NÀO ?
Cuộc trở về với Chúa theo gương
thánh Phao-lô nhằm hai hiệu quả này :
-
Được
thực sự trở nên giống Thiên Chúa.
-
Được
hòa hợp với môi trường sống.
1/ TA THỰC SỰ CHỈ
ĐƯỢC TRỞ NÊN GIỐNG CHÚA TRONG CHÚA GIÊSU.
Chúa Giê-su nói với các môn đệ: “Anh em hãy đi khắp tứ phương thiên hạ loan
báo Tin Mừng cho mọi loài thụ tạo” (Mc 16,15: Tin Mừng).
Ta lưu ý: Chúa Giê-su không nói
loan báo Tin Mừng cho mọi người, mà Ngài nói cho mọi loài thụ tạo.
Ta biết tác giả Sách Sáng thế ghi
nhận: “Thiên Chúa tạo dựng loài người giống
hình ảnh của Ngài” (St 1,26a). Thực ra, đó mới chỉ là ước định của Thiên
Chúa, muốn con người giống Ngài, chứ: “Con người đầu tiên là A-đam được dựng nên
thành một sinh vật, còn A-đam cuối cùng là thần khí ban sự sống” (1Cr
15,45). Cũng vì vậy mà Lời Sách Thánh còn nói: “Về con cái loài người, tôi tự nhủ:
Thiên Chúa muốn thử thách họ và cho họ thấy chính họ chỉ là thú vật mà thôi.Quả thế, con người và thú vật đều cùng chung một số phận: bên này chết,
bên kia cũng chết ; đôi bên đều có sinh khí như nhau. Con người chẳng có gì hơn
thú vật, bởi vì mọi sự chỉ là phù vân” (Gv 3,18-19). Nhưng những ai
được tạo dựng lại nhờ, với, trong Chúa Giê-su, thì họ cùng trở nên một xương thịt với Ngài (x Dt 2,11), được thông dự cùng một sự sống với Ba Ngôi Thiên
Chúa (x Ga 6,57), đến nỗi được đồng
hóa với Chúa Giê-su (x Gl 2,20).
Lời Nguyện Nhập Lễ Thứ Hai, sau
Chúa nhật IV Phục Sinh, Hội Thánh cầu nguyện rằng: “Lạy Chúa, là Đấng tạo thành vũ trụ, Chúa đã muốn cho con người mỗi ngày
một trở nên hoàn hảo hơn, và hoàn thành công trình tạo dựng của Chúa” ; và
Lời Nguyện Nhập Lễ Thứ Năm sau Chúa nhật thứ IV Phục Sinh, Hội Thánh lại cầu
nguyện: “Lạy Chúa, Chúa đã tỏ lòng nhân hậu mà cứu chuộc con
người, và nâng lên địa vị cao sang hơn tình trạng nguyên thủy, xin nhớ lại công
trình kỳ diệu này, mà giúp chúng con trung thành luôn mãi với ơn tái sinh Chúa
đã ban.”
2/ SỰ DỮ KHÔNG LÀM
HẠI ĐƯỢC CON NGƯỜI, TA SỐNG HÒA HỢP VỚI CẢ SỰ DỮ.
Chúa Giê-su hứa với những ai đã lãnh
nhận Bí tích Thánh Tẩy giống các Tông Đồ: “Họ
sẽ cầm được rắn, và dù có uống nhằm thuốc độc, thì cũng chẳng sao. Và nếu họ
đặt tay trên những người bệnh, thì những người này sẽ được mạnh khỏe” (Mc
16,18: Tin Mừng).
Lời hứa trên mang hai ý nghĩa :
a- Ai thuộc về Chúa, sống hay chết đều ở trong
tay Chúa: Cụ thể ông Phao-lô trong lúc vượt biển đi
truyền giáo, con tầu của ông bị đắm, ông đã bơi vào bờ, vì quá lạnh ông thấy
những thổ dân đang đốt lửa, ông muốn đến sưởi ấm, nên ông đã ôm một mớ củi khô
quăng vào đống lửa, ngờ đâu một con rắn độc quấn lấy tay ông. Thổ dân nắm chắn
ông sẽ chết, bởi vì loại rắn này cắn ai thì vô phương cứu chữa, thế nhưng ông
Phao-lô bình tĩnh giũ con rắn vào lửa, ông vẫn sống bình an ! (x Cv 28, 3-6). Điều
ấy minh chứng rằng: bất cứ sự dữ nào: dù rắn hay thuốc độc, cũng không làm hại
được người đã thuộc về Chúa, một khi Chúa chưa cho phép !
b- Sống hòa hợp giữa lành – dữ trong mầu nhiệm Hội Thánh:
Ngôn sứ Isaia nói: “Bấy giờ sói sẽ ở với
chiên con, beo nằm bên dê nhỏ. Bò tơ và sư tử non được nuôi chung với nhau, một
cậu bé sẽ chăn dắt chúng. Bò cái kết thân cùng gấu cái, con của chúng nằm chung
một chỗ, sư tử cũng ăn rơm như bò. Bé thơ còn đang bú giỡn chơi bên hang rắn
lục,trẻ thơ vừa cai sữa thọc tay vào ổ rắn hổ mang” (Is 11,6-8).
Thực ra chân lý trên, người tin
theo Chúa chỉ thực sự thấy ứng nghiệm khi đã hoàn tất cuộc đời này trong Thánh Ý
Thiên Chúa, giống như Tông Đồ Phao-lô và Phó tế Stê-pha-nô: Ở đời này, “sói Phao-lô”
đã ăn thịt “chiên Stê-pha-nô” (x Cv 7, 54t và Cv 8,1-3). Nhưng khi cả hai đã
được về Trời, lúc đó họ mới hiểu giá trị Lời Kinh Thánh “sói sống
chung với chiên”, hoặc “cầm rắn, uống
nhằm thuốc độc cũng chẳng sao” !
Vậy mỗi Ki-tô hữu phải chu toàn
đúng bổn phận của mình ưu tiên theo thứ tự: Cầu nguyện (Tư Tế), giảng Lời (Ngôn
Sứ), rồi phục vụ (Vương Đế) giống Chúa Giê-su (x Mc 1,32-39), và biết canh tân
đời sống Đức Tin của mình giống thánh Phao-lô, đó mới thực sự là ta đã sống giáo
lý của Lễ Kính Thánh Phao-lô Trở Về, mà
ta tham dự hôm nay. Có thế ta mới có khả năng cất tiếng kêu gọi mọi người: “Muôn dân hỡi, nào ca ngợi Chúa, ngàn dân ơi
hãy chúc tụng Người. Vì tình Chúa thương ta thật là mãnh liệt, lòng thành tín của Người bền vững muôn năm.”
(Tv 117/116,2).
THUỘC LÒNG
Đức Giê-su đến trần gian để cứu những người tội lỗi, trong
số đó tôi là người thứ nhất! (1Tm 1,15)