Kinh Thánh
Thời kỳ
Sách
Chương
 
      Lm. Trịnh Ngọc Danh
Bài giảng
Ngày 25-1 Thánh PHAOLO TÔNG ĐỒ TRỞ LẠI
Âm thanh
Video
[ Bấm play 2 lần liên tiếp để xem video. Vui lòng chờ chút nếu kết nối mạng chậm ]
BÀI ĐỌC 1 VÀ 2 (NẾU CÓ)
BÀI ĐỌC: Cv 22, 3-16
3 Hôm đó, ông Phao-lô nói với dân chúng: "Tôi là người Do-thái, sinh ở Tác-xô miền Ki-li-ki-a, nhưng tôi đã được nuôi dưỡng tại thành này; dưới chân ông Ga-ma-li-ên, tôi đã được giáo dục để giữ Luật cha ông một cách nghiêm ngặt. Tôi cũng đã nhiệt thành phục vụ Thiên Chúa như tất cả các ông hiện nay.4 Tôi đã bắt bớ Đạo này, không ngần ngại giết kẻ theo Đạo, đã đóng xiềng và tống ngục cả đàn ông lẫn đàn bà,5 như cả vị thượng tế lẫn toàn thể hội đồng kỳ mục có thể làm chứng cho tôi. Tôi còn được các vị ấy cho thư giới thiệu với anh em ở Đa-mát, và tôi đi để bắt trói những người ở đó, giải về Giê-ru-sa-lem trừng trị.
6 "Đang khi tôi đi đường và đến gần Đa-mát, thì vào khoảng trưa, bỗng nhiên có một luồng ánh sáng chói lọi từ trời chiếu xuống bao phủ lấy tôi.7 Tôi ngã xuống đất và nghe có tiếng nói với tôi: "Sa-un, Sa-un, tại sao ngươi bắt bớ Ta?8 Tôi đáp: "Thưa Ngài, Ngài là ai? Người nói với tôi: "Ta là Giê-su Na-da-rét mà ngươi đang bắt bớ.9 Những người cùng đi với tôi trông thấy có ánh sáng, nhưng không nghe thấy tiếng Đấng đang nói với tôi.10 Tôi nói: "Lạy Chúa, con phải làm gì? Chúa bảo tôi: "Hãy đứng dậy, đi vào Đa-mát, ở đó người ta sẽ nói cho anh biết tất cả những gì Thiên Chúa đã chỉ định cho anh phải làm.11 Vì ánh sáng chói loà kia làm cho tôi không còn trông thấy nữa, nên tôi đã được các bạn đồng hành cầm tay dắt vào Đa-mát.
12 "Ở đó, có ông Kha-na-ni-a, một người sùng đạo, sống theo Lề Luật và được mọi người Do-thái ở Đa-mát chứng nhận là tốt.13 Ông đến, đứng bên tôi và nói: "Anh Sa-un, anh thấy lại đi! Ngay lúc đó, tôi thấy lại được và nhìn ông.14 Ông nói: "Thiên Chúa của cha ông chúng ta đã chọn anh để anh được biết ý muốn của Người, được thấy Đấng Công Chính và nghe tiếng từ miệng Đấng ấy phán ra.15 Quả vậy, anh sẽ làm chứng nhân cho Đấng ấy trước mặt mọi người về các điều anh đã thấy và đã nghe.16 Vậy bây giờ anh còn chần chừ gì nữa? Anh hãy đứng lên, chịu phép rửa và thanh tẩy mình cho sạch tội lỗi, miệng kêu cầu danh Người".
ĐÁP CA: Tv 116
Đ.        Anh em hãy đi khắp tứ phương thiên hạ, mà loan báo Tin Mừng.  (Mc 16,15)
1 Muôn nước hỡi, nào ca ngợi Chúa, ngàn dân ơi, hãy chúc tụng Người!
2 Vì tình Chúa thương ta thật là mãnh liệt, lòng thành tín của Người bền vững muôn năm.
 
BÀI TIN MỪNG
TUNG HÔ TIN MỪNG: x Ga 15,16
Hall-Hall: Chúa nói: Chính Thầy đã chọn anh em từ giữa thế gian, để anh em ra đi, sinh được hoa trái, và hoa trái của anh em tồn tại. Hall.
TIN MỪNG: Mc 16,15-18
15 Hôm ấy, Đức Giê-su hiện ra với Nhóm Mười Một và nói với các ông rằng: "Anh em hãy đi khắp tứ phương thiên hạ, loan báo Tin Mừng cho mọi loài thọ tạo.16 Ai tin và chịu phép rửa, sẽ được cứu độ; còn ai không tin, thì sẽ bị kết án.17 Đây là những dấu lạ sẽ đi theo những ai có lòng tin: nhân danh Thầy, họ sẽ trừ được quỷ, sẽ nói được những tiếng mới lạ.18 Họ sẽ cầm được rắn, và dù có uống nhằm thuốc độc, thì cũng chẳng sao. Và nếu họ đặt tay trên những người bệnh, thì những người này sẽ được mạnh khoẻ."
 
BÀI GIẢNG
 
CANH TÂN CÁCH SỐNG ĐẠO
MỚI THỰC LÀ TRỞ VỀ VỚI CHÚA
Qua các Bài đọc trong Thánh Lễ kính cuộc Trở Về của Tông Đồ Phao-lô và ý nghĩa của cuộc Trở Về cho chúng ta ba điểm giáo lý cần suy gẫm và đem ra thực hành :
-    Sức mạnh nào phá hủy Hội Thánh Chúa mạnh nhất.
-    Ai là người cần phải trở về với Chúa trước nhất ?
-    Hiệu quả cuộc trở về nhắm đạt yêu cầu nào ?
I.  SỨC MẠNH NÀO PHÁ HỦY HỘI THÁNH CHÚA MẠNH NHẤT.
Nhìn vào lịch sử Hội Thánh từ thời sơ khai đến nay, cho chúng ta kinh nghiệm về sự tàn phá trong Hội Thánh, do không làm đúng sứ mệnh và không canh tân Đức Tin :
1/ KHÔNG LÀM ĐÚNG SỨ MỆNH.
Cụ thể vào thời Giáo Hội sơ khai, các Tông Đồ đã bỏ bê cầu nguyện và giảng Lời vì bận tâm lo việc phục vụ bàn ăn. Cụ thể các Tông Đồ được giáo dân tín nhiệm, họ bán hết tài sản góp cho các ngài để chia sẻ đồng đều cho mọi người. Quả thật, bản chất việc làm này là tốt, vì đã diễn tả thời cánh chung trong Nước Thiên Chúa chẳng ai thiếu thốn gì. Vì thế, các Tông Đồ mải mê công việc này mà xao nhãng cầu nguyện và giảng Lời, tức là bỏ việc chính mà làm việc phụ, hậu quả gây sóng gió trong cộng đoàn, các tín hữu bất hòa với nhau ! Kinh Thánh  đã trách: “Nhiều kẻ giữ đạo hình thức, vì nó loại bỏ điều chính mà làm điều phụ” (2Tm 3,5). Thánh Augustin nói: “Bạn chạy khỏe lắm đó, nhưng trật đường mất rồi”. Chúa soi sáng cho các Tông Đồ nhận biết mình sai lầm, nên các ông đã chọn ra bảy người có uy tín trong dân gọi là Phó tế, để trao việc quản lý tài sản của Giáo Hội và chia sẻ của cải cho mọi người không ai dư của, không ai túng thiếu ;  còn các Tông Đồ thì trở về với nhiệm vụ chính là cầu nguyện và giảng Lời, từ bấy giờ Hội Thánh được bình an và phát triển (x Cv 6,1-7).
Nhìn vào đời sống Hội Thánh từ hơn 20 thế kỷ nay, dù biết rằng các vị chủ chăn đã được trao sứ mệnh : “1-Tư Tế, 2-Ngôn sứ, 3-Vương đế”. Nhưng trong thực tế, hầu hết các ngài đã làm đảo lộn: “3-Vương đế, 1-Tư tế, 2-Ngôn sứ”, nghĩa là hàng giáo sĩ đã biến sứ mệnh thành cơ cấu để tỏ uy quyền, hầu những kẻ dưới luôn luôn phải lệ thuộc vào “cụ”. Vì “cụ” chỉ muốn bảo gì cũng phải nghe, sai gì cũng phải làm, phải trái hậu xét ! Bởi thế, các “cụ” không còn đủ giờ chu toàn sứ mệnh Tư Tế (cầu nguyện) và Ngôn Sứ (giảng Lời). Sống như thế chẳng giống Chúa Giê-su chút nào. Đức Giê-su vốn dĩ là Chúa, là Vua, nhưng Ngài không thể hiện quyền Vua của Ngài để khuất phục ai, như Ngài khước từ can thiệp việc chia gia tài cho một người đến xin Ngài đứng ra phân xử trong gia đình họ (x Lc 12,13-14), hoặc không để nhiều giờ chữa bệnh, trừ quỷ, lấn lướt việc cầu nguyện và giảng Lời. Mà có lúc Ngài phải trốn nhu cầu của dân để có giờ chu toàn sứ mệnh Tư Tế (cầu nguyện) và Ngôn Sứ (giảng Lời) [x Mc 1,32-39]. Như thế Chúa Giê-su chu toàn hai sứ mệnh này, thì Ngài đã chu toàn sứ mệnh Vương Đế. Đức cố Giáo hoàng Gioan Phaolo II đã cảnh báo: “Mối nguy thường xuyên nơi các chủ chăn trong Hội Thánh là năng nổ, đắm chìm vào những công việc của Chúa, nhưng lại quên mất Chúa là Chủ của công việc”. Câu nói này Đức Giáo hoàng muốn nhấn mạnh: các mục tử say sưa, nỗ lực để điều hành mọi sinh hoạt của cộng đoàn, bề ngoài xem ra sinh động và thành công, nhưng đời sống cầu nguyện và sứ mệnh giảng dạy thì thiếu sót. Chính việc cầu nguyện và giảng Lời mới là Chúa của công việc.
Bởi thế, giáo huấn của Công Đồng Vat.II trong Hiến Chế Phụng Vụ số 86 dạy: “Các Linh mục miệt mài với công việc mục vụ thánh, càng cần phải sốt sắng chu toàn các giờ Kinh Phụng Vụ ngợi khen, nếu càng ý thức sống động hơn rằng mình phải tuân giữ lời căn dặn của thánh Phao-lô: “Hãy cầu nguyện không ngừng” (1Tx 5,17) ; vì chưng chỉ một mình Chúa mới có thể ban hiệu quả, và sự tiến triển cho công việc họ làm, Chúa đã phán: “Không có Thầy, các con không thể làm được việc gì (Ga 15,5). Vì thế, khi thiết lập hàng Phó tế, các Tông Đồ đã nói: “Về phần chúng tôi, chúng tôi sẽ chuyên tâm đến việc cầu nguyện và giảng dạy” (Cv 6,4)”.
2/ KHÔNG CANH TÂN ĐỨC TIN.
Cụ thể nhất là bám víu vào truyền thống Đức Tin của tiền nhân, mà không canh tân đời sống đạo theo giáo huấn của Hội Thánh Chúa Ki-tô: Thực vậy, ông Sau-lô vì quá say mê và tự mãn truyền thống Đức Tin của cha ông dựa trên Luật Mô-sê và giáo huấn của các ngôn sứ, ông cho đó đã là tuyệt hảo, nên khi ông thấy nhiều người Do-Thái đã bị các môn đệ của ông Giê-su “dụ dỗ” sửa đổi Luật Mô-sê để theo đạo ông Giê-su, làm cho ông Sau-lô tức cuồng, nên ông lãnh trát của các thượng tế ở Giê-ru-sa-lem phóng về Đama gặp bất cứ ai theo giáo lý của các môn đệ ông Giê-su, là Sau-lô ra tay triệt hạ !
Vì lòng thành của ông muốn bảo vệ đạo Chúa, nhưng ông đã sai lầm ! Ông không hiểu rằng Luật Mô-sê và giáo huấn các tiên tri chỉ trở nên hoàn hảo và thực hữu nhờ mầu nhiệm Tử Nạn và Phục Sinh của Chúa Giê-su. Do đó, Chúa Giê-su dủ lòng thương xót ông: Ngài quật ngã ông ngay trên đường đang xông tới Đama. Sau khi ông được nghe tiếng Chúa hỏi tội, và Ngài mạc khải cho ông biết rằng: giết những người Công Giáo chính là giết Giê-su! Từ đó, ông theo học giáo lý nơi các Tông Đồ.  Con mắt Đức Tin của ông mới được bừng mở, và ông trở nên môn đệ rất xuất sắc của Chúa Giê-su, không thua kém các Tông Đồ thượng đẳng (x Cv 22,3-16: Bài đọc ; 2Cr 11,5).
Nhìn vào tình trạng của Hội Thánh trên toàn thế giới hôm nay, nhiều người Công Giáo dần dần bỏ đạo, hoặc sang tôn giáo khác, hoặc không thiết tha gì đến dự Phụng Vụ của Hội Thánh, kể cả lễ Chúa nhật và lễ Trọng, họ cũng tỏ ra thờ ơ lãnh đạm ! Đan cử đài Chân Lý Á Châu loan tin ngày 05/01/2010 về tình trạng Giáo Hội Công Giáo tại Hòa Lan:
“Cách đây nửa thế kỷ, Hòa Lan là một nước Công Giáo vững mạnh, có sức truyền giáo. Nhưng ngày nay (2010), 41% người Hòa Lan tuyên bố vô tôn giáo ; 58% không còn biết lễ Giáng Sinh là gì! Như thế 41% + 58% = 99%  mất Đức Tin !! Đa số nhà thờ Công Giáo ở Hòa Lan biến thành ký túc xá, tiệm buôn bán, thành nhà thờ Hồi Giáo ! Tâm hồn giới trẻ trống rỗng về Đức Tin, nhưng không biết hỏi ai, vì thiếu người giảng dạy ! Một số Linh mục dòng Đaminh và Linh mục dòng Tên chủ trương dâng Lễ không cần Linh mục, chỉ cần giáo dân quy tụ cùng dâng Lễ là được. Giáo Hội Công Giáo Hòa Lan đang có nguy cơ biến mất !”
Sự cố này đang diễn ra không phải chỉ ở Hòa Lan, mà còn ở hầu hết ở các nước có nền văn hóa Ki-tô giáo trước đây vững mạnh, nay suy sụp mỗi ngày thêm trầm trọng hơn, cũng chỉ vì đa số các chủ chăn lại đi vào vết chân “truyền thống” của các tiền nhân. Ngày nay, chúng ta cứ nhìn vào sinh hoạt của các cộng đoàn dân Chúa, phần lớn giáo dân sống đạo bắt chước người khác, mà không cần biết đúng hay sai với giáo lý Hội Thánh đã dạy. Đan cử một số vấn đề:
§    Có cần phải xây đài Đức Mẹ ở cuối Nhà Thờ hay không? Trong Nhà Thờ nào cũng có đặt tượng Đức Mẹ, thế thì cuối Lễ tại sao không cùng nhau cầu nguyện với Đức Mẹ trong Nhà Thờ? Không lẽ Đức Mẹ ở Đài thì linh hơn hay sao? Nếu thế thì đừng nên đặt Đức Mẹ trong Nhà Thờ nữa, bởi vì Mẹ trong Nhà Thờ cảm thấy cô đơn hoặc người ta thiếu tin tưởng?!
§    Các bảng Tạ Ơn luôn khắc câu  “Con Tạ Ơn Đức Mẹ” hoặc “Con Tạ Ơn thánh Giuse”. Như thế có đúng Đức Tin hay không ? Vì “ngoài Chúa ra không ai có thể lãnh nhận ơn gì” (x Ga 3,27),và Đức Tin Công Giáo luôn luôn xác tín: “chính nhờ Đức Ki-tô, cùng với Đức Ki-tô và trong Đức Ki-tô, mọi chúc tụng và vinh quang mới quy về Chúa” (Rm 11,36). Thế thì đáng lẽ mọi bảng Tạ Ơn phải ghi “Con Tạ Ơn Chúa qua lời chuyển cầu của Đức Mẹ” hoặc “Con Tạ Ơn Chúa, vì Ngài đã nhận lời cầu của thánh Martin” v.v… Nếu ta cứ bắt chước nhau để bảng Tạ Ơn như người khác quen làm, là cách ta gán cho các đấng thánh đã cướp quyền Thiên Chúa !
§    Lấy tên địa danh nơi Đức Mẹ hiện ra để đặt tên cho Đức Mẹ, có hay không? Người ta thường bỏ tên Maria (tiếng Do Thái là Miryam, tiếng gốc cổ Ai Cập là Mri, có nghĩa là được yêu mến. Thời Tân Ước, tự nguyên bình dân dựa trên tiếng Aram (Mara), có nghĩa là chủ, chúa, bà. Nên Maria có nghĩa là bà chủ).
Tên Mẹ Thiên Chúa hay như thế, và Đức Giê-su cũng từng gọi Mẹ Ngài bằng tên này. Tại sao nay người ta bỏ đi? Đức Maria không phải là nhân vật thần thoại, mà là con người lịch sử,được Thiên Chúa chọn trong dân tộc Do Thái. Thì ta cứ phải tạc tượng Mẹ Maria theo mẫu người phụ nữ Do Thái mới hợp lý. Bởi vì Thiên Chúa không chọn một phụ nữ ở dân tộc khác, không chọn phụ nữ Việt Nam để làm tượng Đức Mẹ đội khăn đống áo dài! Nếu muốn nhớ ơn Đức Mẹ hiện ra ở Lộ Đức, ở La-Vang, ở Fatima, thì ta gọi là Mẹ Maria Lộ Đức, Mẹ Maria La-Vang, Mẹ Maria Fatima… Nếu cứ bắt chước nhau lấy địa danh nơi Mẹ hiện ra để đặt cho Mẹ, thì chúng ta hãy cầu xin Mẹ chớ khi nào Mẹ vô ý hiện ra ở địa danh Lạc Quần, Lạc Đạo, thì người làm tượng không thể diễn tả về Mẹ Lạc Quần, Mẹ Lạc Đạo được!? Và dân ngoại không thể nhận ra người Công Giáo chỉ có một người Mẹ duy nhất là Đức Maria, Mẹ Thiên Chúa, Mẹ Hội Thánh.
Và còn rừng vấn đề khác tương tự như trên. Hỏi ai có trách nhiệm phải làm cho giáo dân diễn tả đúng Đức Tin của mình?
Các chủ chăn lẽ ra phải bắt chước Chúa Giê-su ưu tiên chu toàn hai sứ mệnh Tư Tế và Ngôn Sứ để quy tụ muôn dân về cho Chúa. Chính vì vậy mà giáo huấn của Công Đồng Vat.II trong Sắc Lệnh Đào Tạo Linh Mục số 4 dạy: “Phải huấn luyện chủng sinh trở thành những mục tử chăn dắt các linh hồn theo gương Chúa Giê-su là Thầy Linh Mục và là Chủ Chăn. Vậy để chu toàn chức vụ rao giảng Lời Chúa, họ phải được chuẩn bị để mỗi ngày hiểu Lời mạc khải của Chúa hơn, để nhờ suy gẫm, thấm nhuần và diễn tả trong lời nói cùng cách sống. Họ phải được chuẩn bị chu toàn chức vụ Phụng Tự và thánh hóa: để thi hành công việc cứu rỗi qua Hy Tế Thánh Thể và các Bí tích bằng lời cầu nguyện, và nghiêm chỉnh cử hành các Nghi Lễ Phụng Vụ”. Bởi thế Sắc Lệnh Chức Vụ Và Đời Sống Linh Mục số 4, đã nhắc nhở các chủ chăn: “Dân Chúa được quy tụ trước nhất là nhờ Lời Thiên Chúa hằng sống, Lời này phải đặc biệt tìm thấy trên môi miệng các Linh mục, bởi vì các Linh mục mắc nợ dân về Lời Chúa”.
Để giúp cho các mục tử chu toàn sứ mệnh Tư Tế và Ngôn Sứ, giáo huấn của Công Đồng Vat.II trong Hiến Chế Phụng Vụ đã dạy:
-     Khi cử hành Phụng Vụ, Kinh Thánh giữ vai trò tối quan trọng. Thực vậy, Hội Thánh đã trích từ Thánh Kinh những Bài đọc để dẫn giải trong bài giảng (số 24).
-    HeHiw5HieHIBài giảng phải căn cứ vào Thánh Kinh để trình bày các mầu nhiệm Đức Tin và các qui tắc cho đời sống Kitô hữu trong suốt chu kỳ năm phụng vụ. Bài giảng rất đáng được coi như một phần của chính Phụng Vụ (số 52).
-    Bài giảng thuộc phần hoạt động của Phụng Vụ, nên phải có thời giờ thích hợp để giảng giải… Phải hết sức trung thành chu toàn thừa tác vụ giảng giải đúng với Nghi Lễ. Tiên vàn bài giảng phải múc lấy từ nguồn Kinh Thánh và Phụng Vụ , vì như thế là rao truyền việc kỳ diệu của Thiên Chúa trong lịch sử cứu độ” (số 35).
Nếu giáo dân đi dự Lễ bất cứ nhà thờ Công Giáo nào, cũng được nghe lời giáo huấn do các chủ chăn khai triển từ các bản văn Kinh Thánh, làm đúng với Quy Luật Phụng Vụ, như giáo huấn của Công Đồng Vatican II đã dạy như trên, thì chắc chắn tháp Babel mới càng ngày càng được xây dựng rộng và cao chạm tới Trời (dân được cứu độ) khởi đi từ ngày lễ Ngũ Tuần: con cháu Noe đã tản đi khắp nơi từ thời xây tháp Babel thất bại, vì họ không nói chung một ngôn ngữ (x St 11,1-9), nay tụ về để cùng nghe và nói một ngôn ngữ của Hội Thánh do ông Phê-rô (Giáo hoàng) loan báo  (x Cv 2). Thế nên “anh em hãy đi khắp tứ phương thiên hạ mà loan báo Tin Mừng” (Mc 16,15: Đáp ca). Vì Chúa nói: “Thầy đã chọn anh em từ giữa thế gian, để anh em ra đi,sinh được hoa trái, và  hoa trái của anh em tồn tại” (Ga 15,16: Tung Hô Tin Mừng).
 II. AI LÀ NGƯỜI CẦN PHẢI TRỞ VỀ VỚI CHÚA TRƯỚC NHẤT ?
Cuộc trở về của thánh Phao-lô, không phải là nhắm trở về trong lãnh vực luân lý, đạo đức – vì ông Phao-lô là một Biệt phái rất gương mẫu trong việc giữ Luật Mô-sê, trổi vượt xa nhiều đồng chủng, đồng trang lứa với ông (x Gl 1,14) – Mà cuộc trở về của ông Phao-lô nhấn mạnh đến việc canh tân, đổi mới về mặt Đức Tin, để lôi kéo, tập họp nhiều người về cho  Chúa !
Chân lý này đã được Đức Giê-su  nói trong “Dụ ngôn con chiên bị lạc” (x Lc 15,4-7). Nếu ta cắt nghĩa dụ ngôn này theo nghĩa đen, thì thật là vô lý ! Vì người nuôi chiên, ai cũng mong vắt được nhiều sữa, lấy được nhiều thịt, đạt kinh tế cao. Thế thì 99 con chiên không lạc làm cho chủ có nhiều lợi tức hơn, vậy tại sao chủ không vui mừng khi 99 chiên không lạc, mà lại rất vui khi một con trở về, liệu nó có đem lại nhiều lợi tức cho chủ hơn 99 con kia không ?!
Bởi đó, muốn hiểu đúng ý nghĩa và giá trị của dụ ngôn Chiên Lạc, bắt buộc ta phải hiểu:
-    99 con chiên không lạc là các Tông Đồ được Đức Giê-su  chọn khi Ngài còn sống trên dương thế !
-     01 con chiên lạc trở về ràn chiên của chủ, đó chính là ông Phao-lô.
Thực vậy, khi ông Phao-lô trở về đoàn chiên Hội Thánh, ông đã trở thành một Tông Đồ xuất sắc không thua kém “các Tông Đồ thượng đẳng”, hơn cả về lượng, hơn cả về phẩm chất (x 2Cr 11,5).
Vì thế, thánh Tông Đồ đã khoe với ông Ti-mô-thê, môn đệ ông rằng: “Đức Giê-su  bước vào trần gian để cứu những người tội lỗi, trong số đó tôi là người thứ nhất !” (1Tm 1,15) Người thứ nhất ở đây không phải là người đầu tiên được Chúa cứu, mà là mẫu trở về với Đức Giê-su  cho tất cả mọi người. Hiểu như thế, chúng ta mới biết giá trị câu nói của Đức Giê-su : “Khi người tội lỗi ăn năn sám hối trở về, thì cả tầng trời rúng lên vì niềm vui mừng!” (Lc 15,7a). Thế thì :

§  Trong gia đình, người bố là chiên đầu đàn, như sách Huấn ca 30, 4 nói: “Người bố dù có tắt thở ông cũng chưa chết, vì ông đã để lại con cái giống hệt ông!” Người bố ở đây không chỉ quy trách nhiệm riêng cho người chồng, mà là hết những ai có trách nhiệm giáo dục trong gia đình: ông bà, mẹ, anh chị, người bảo hộ, đều phải canh tân đời sống Đức Tin như thánh Phao-lô.

§  Trong một giáo xứ, cha Sở là chiên đầu đàn. Thánh Gio-an Ma-ri-a Vi-a-ney nói: “Linh mục thánh thiện, thì giáo dân đạo đức ;  Linh mục đạo đức, thì giáo dân tầm thường ; Linh mục tầm thường, thì giáo dân ra quỷ!” Vậy nếu Linh mục mà ra quỷ, thì giáo dân còn độc ác hơn quỷ vương Beelzebul !!

§  Trong địa phận, Giám mục là chiên đầu đàn. Thánh Au-gút-tin nói: “Làm Giám mục cho anh em, tôi rất lo sợ, làm tín hữu với anh em, tôi rất an tâm. Vì Giám mục chỉ là một chức vụ, tín hữu mới là một ân phúc. Giám mục là một danh hiệu nguy hiểm, tín hữu là một danh hiệu đem ơn cứu độ!” (x HCHT số 32) Nói kiểu của cha Gioan Maria Vianey thì: “Nếu Giám mục tầm thường thì hàng Linh mục trong địa phận ra quỷ !”

Chính vì vậy mà bất cứ Thánh Lễ nào, sau lời Truyền Phép, lời cầu nguyện đầu tiên là cho Giám mục thủ lãnh (Giáo  hoàng), và Giám mục địa phận, vì các vị này mới là người quyết định làm cho Hội Thánh được bốc lên.Bởi vì mỗi giáo phận là một Hội Thánh vẹn toàn, vì Giám mục là hiện thân Tông Đồ của Đức Giê-su, là thầy  dạy Đức Tin. Nên việc canh tân sống đạo của mọi thành phần trong Giáo phận hoàn toàn lệ thuộc vào Giám mục địa phận.  Do đó nếu có giáo dân hay Linh mục nào giống thánh Phao-lô, thì cũng chỉ là “đèn chói mắt”, làm nhức đầu người khác ! Nhưng nếu Giám mục là một Phao-lô mới, thì sẽ làm bốc lên sức sống đạo của dân Chúa trong địa phận, trở thành bó đuốc sáng, thành đèn hải đăng soi dẫn muôn dân tìm về ràn chiên của Đức Giê-su ! Thực là buồn cho Hội Thánh Chúa, suốt hơn 20 thế kỷ nay, mới chỉ có một Giám mục Phao-lô mà thôi !
III. HIỆU QUẢ CUỘC TRỞ VỀ NHẮM ĐẠT YÊU CẦU NÀO ?
Cuộc trở về với Chúa theo gương thánh Phao-lô nhằm hai hiệu quả này :
-          Được thực sự trở nên giống Thiên Chúa.
-          Được hòa hợp với môi trường sống.
1/ TA THỰC SỰ CHỈ ĐƯỢC TRỞ NÊN GIỐNG CHÚA TRONG CHÚA GIÊSU.
Chúa Giê-su nói với các môn đệ: “Anh em hãy đi khắp tứ phương thiên hạ loan báo Tin Mừng cho mọi loài thụ tạo” (Mc 16,15: Tin Mừng).
Ta lưu ý: Chúa Giê-su không nói loan báo Tin Mừng cho mọi người, mà Ngài nói cho mọi loài thụ tạo.
Ta biết tác giả Sách Sáng thế ghi nhận: “Thiên Chúa tạo dựng loài người giống hình ảnh của Ngài” (St 1,26a). Thực ra, đó mới chỉ là ước định của Thiên Chúa, muốn con người giống Ngài, chứ: “Con người đầu tiên là A-đam được dựng nên thành một sinh vật, còn A-đam cuối cùng là thần khí ban sự sống” (1Cr 15,45). Cũng vì vậy mà Lời Sách Thánh còn nói: “Về con cái loài người, tôi tự nhủ: Thiên Chúa muốn thử thách họ và cho họ thấy chính họ chỉ là thú vật mà thôi.Quả thế, con người và thú vật đều cùng chung một số phận: bên này chết, bên kia cũng chết ; đôi bên đều có sinh khí như nhau. Con người chẳng có gì hơn thú vật, bởi vì mọi sự chỉ là phù vân” (Gv 3,18-19). Nhưng những ai được tạo dựng lại nhờ, với, trong Chúa Giê-su, thì họ cùng trở nên một xương thịt với Ngài (x Dt 2,11), được thông dự cùng một sự sống với Ba Ngôi Thiên Chúa (x Ga 6,57), đến nỗi được đồng hóa với Chúa Giê-su (x Gl 2,20).
Lời Nguyện Nhập Lễ Thứ Hai, sau Chúa nhật IV Phục Sinh, Hội Thánh cầu nguyện rằng: “Lạy Chúa, là Đấng tạo thành vũ trụ, Chúa đã muốn cho con người mỗi ngày một trở nên hoàn hảo hơn, và hoàn thành công trình tạo dựng của Chúa” ; và Lời Nguyện Nhập Lễ Thứ Năm sau Chúa nhật thứ IV Phục Sinh, Hội Thánh lại cầu nguyện: “Lạy Chúa, Chúa đã tỏ lòng nhân hậu mà cứu chuộc con người, và nâng lên địa vị cao sang hơn tình trạng nguyên thủy, xin nhớ lại công trình kỳ diệu này, mà giúp chúng con trung thành luôn mãi với ơn tái sinh Chúa đã ban.”
2/ SỰ DỮ KHÔNG LÀM HẠI ĐƯỢC CON NGƯỜI, TA SỐNG HÒA HỢP VỚI CẢ SỰ DỮ.
Chúa Giê-su hứa với những ai đã lãnh nhận Bí tích Thánh Tẩy giống các Tông Đồ: “Họ sẽ cầm được rắn, và dù có uống nhằm thuốc độc, thì cũng chẳng sao. Và nếu họ đặt tay trên những người bệnh, thì những người này sẽ được mạnh khỏe” (Mc 16,18: Tin Mừng).
Lời hứa trên mang hai ý nghĩa :
a- Ai thuộc về Chúa, sống hay chết đều ở trong tay Chúa:  Cụ thể ông Phao-lô trong lúc vượt biển đi truyền giáo, con tầu của ông bị đắm, ông đã bơi vào bờ, vì quá lạnh ông thấy những thổ dân đang đốt lửa, ông muốn đến sưởi ấm, nên ông đã ôm một mớ củi khô quăng vào đống lửa, ngờ đâu một con rắn độc quấn lấy tay ông. Thổ dân nắm chắn ông sẽ chết, bởi vì loại rắn này cắn ai thì vô phương cứu chữa, thế nhưng ông Phao-lô bình tĩnh giũ con rắn vào lửa, ông vẫn sống bình an ! (x Cv 28, 3-6). Điều ấy minh chứng rằng: bất cứ sự dữ nào: dù rắn hay thuốc độc, cũng không làm hại được người đã thuộc về Chúa, một khi Chúa chưa cho phép !
b-  Sống hòa hợp giữa lành – dữ trong mầu nhiệm Hội Thánh: Ngôn sứ Isaia nói: “Bấy giờ sói sẽ ở với chiên con, beo nằm bên dê nhỏ. Bò tơ và sư tử non được nuôi chung với nhau, một cậu bé sẽ chăn dắt chúng. Bò cái kết thân cùng gấu cái, con của chúng nằm chung một chỗ, sư tử cũng ăn rơm như bò. Bé thơ còn đang bú giỡn chơi bên hang rắn lục,trẻ thơ vừa cai sữa thọc tay vào ổ rắn hổ mang” (Is 11,6-8).
Thực ra chân lý trên, người tin theo Chúa chỉ thực sự thấy ứng nghiệm khi đã hoàn tất cuộc đời này trong Thánh Ý Thiên Chúa, giống như Tông Đồ Phao-lô và Phó tế Stê-pha-nô: Ở đời này, “sói Phao-lô” đã ăn thịt “chiên Stê-pha-nô” (x Cv 7, 54t và Cv 8,1-3). Nhưng khi cả hai đã được về Trời, lúc đó họ mới hiểu giá trị Lời Kinh Thánh  “sói sống chung với chiên”, hoặc “cầm rắn, uống nhằm thuốc độc cũng chẳng sao” !
Vậy mỗi Ki-tô hữu phải chu toàn đúng bổn phận của mình ưu tiên theo thứ tự: Cầu nguyện (Tư Tế), giảng Lời (Ngôn Sứ), rồi phục vụ (Vương Đế) giống Chúa Giê-su (x Mc 1,32-39), và biết canh tân đời sống Đức Tin của mình giống thánh Phao-lô, đó mới thực sự là ta đã sống giáo lý của Lễ Kính Thánh Phao-lô Trở Về,  mà ta tham dự hôm nay. Có thế ta mới có khả năng cất tiếng kêu gọi mọi người: “Muôn dân hỡi, nào ca ngợi Chúa, ngàn dân ơi hãy chúc tụng Người. Vì tình Chúa thương ta thật là mãnh liệt,  lòng thành tín của Người bền vững muôn năm.” (Tv 117/116,2).
THUỘC LÒNG
Đức Giê-su đến trần gian để cứu những người tội lỗi, trong số đó tôi là người thứ nhất! (1Tm 1,15)



Gửi phản hồi - thắc mắc

Tên của bạn *
Địa chỉ
Email *
Điện thoại
   
Câu hỏi

Lên đầu trang
Các bài giảng khác: