BÀI GIẢNG
SỐNG ĐỨC
TIN LÀ NGHE VÀ NÓI LỜI THIÊN CHÚA
Trong
thực tế, ai bị câm thì người ấy cũng bị điếc, và ngược lại.Thế mà trong Tin
Mừng Marcô lại ghi Đức Giêsu chữa lành cho một người điếc và ngọng (x Mc
7,31-37 : Tin Mừng). Kẻ điếc có khi là do bệnh, nhưng cũng có người bị điếc về
mặt tâm lý, khi họ biết một người nói sai là không muốn nghe, nên tìm cách
tránh né. Adam, Eva thuộc loại người này. Vì vợ chồng hồ nghi Thiên Chúa cấm ăn
quả “biết lành biết dữ” là sai, nghe Satan bảo cứ ăn mới sống tốt, vì “trở nên những Thiên Chúa biết cả tốt xấu”
(x St 3,1-5 – Bản dịch NTT). Do đó,sau khi Adam Eva làm theo lời Satan xúi
giục, Chúa cất bước đi tìm họ để đứng về phía loài người chống lại Satan, thì
cả hai ông bà lại dắt nhau tìm lùm cây ẩn núp (x St 3,9-10).
Kẻ
nào không muốn gặp Thiên Chúa, không muốn nghe Ngài dạy, thì làm sao nó nói
chính xác về Thiên Chúa được! Có nhìn những việc kỳ diệu Đức Giêsu làm cũng
chẳng biết rõ Ngài là ai. Thực vậy, cả đến các môn đệ Đức Giêsu khi thấy Thầy
quát bảo biển không được nổi sóng để thuyền các ông chở Thầy vào bờ được bình
an, làm các ông ngơ ngác nhìn nhau hỏi : “Thầy
mình là ai vậy mà truyền sóng biển phải vâng lời?” (Mc 4,41) Kẻ nói về
Thiên Chúa như thế phải xếp vào loại nói “ngọng”.
Để
nhận ra hầu hết người Công Giáo bị “ngọng” về Thiên Chúa. Cụ thể khi họ đối
thoại với anh em Tin Lành về Kinh Thánh, mới lộ rõ họ là những kẻ “ngọng”, có
khi cứng lưỡi không biết đối đáp với anh em Tin Lành về những thắc mắc trong
Kinh Thánh. Thua xa nhiều tín hữu Tin Lành rất say sưa hăng hái gõ cửa từng nhà
lối xóm để rao truyền Thánh Kinh, vì mỗi tuần họ dành cả giờ hay hơn nữa đến
nghe mục sư giảng dạy. Trong khi đó người Công Giáo không chấp nhận đến Nhà Thờ
nào giảng kéo dài đến 30 phút, dù đó là “thời gian thích hợp trình bày các mầu nhiệm
Đức Tin và những quy tắc cho đời sống Kitô hữu trong suốt chu kỳ năm Phụng Vụ
rút ra từ các Bài đọc trong Thánh Lễ” (x HCPV số 24 và 52).
Người
Công Giáo nào không quan tâm, không yêu thích nghe Lời Chúa, kẻ ấy chính là
dòng giống Adam, Eva. Thực vậy, Chúa cấm Adam, Eva không được ăn trái cây “biết
lành biết dữ”, thì bà Eva lại nói với Satan: “Chúa bảo ngày nào mà động đến cây cấm ấy, là mất mạng”. Quỷ
nghe nói thế, nó biết Eva không nói chính xác lệnh Chúa đã truyền, bà là kẻ nói
“ngọng”, nên nó tấn công tiếp, làm cả hai vợ chồng mắc mưu nó : Bất tùng phục
Lời Chúa! Hậu quả dòng giống này mất hết phẩm giá Chúa đã ban, trở thành những
kẻ trần truồng, phải kết lá vả làm khố che thân (x St 3,1-8 : Bài đọc năm lẻ -
Bản dịch NTT).
Để
hiểu ý Đức Giêsu muốn nhắn gởi mọi người qua phép lạ Ngài làm cho anh điếc và
ngọng, được công bố trong Thánh Lễ hôm nay (x Mc 7,31-37: Tin Mừng). Trước nhất
ta phải đọc toàn bộ Tin Mừng của Marcô xuyên suốt cuộc đời phục vụ của Đức
Giêsu không ai biết rõ Ngài là Con Thiên Chúa, mãi tới ngày Thứ Sáu Tuần Thánh,
tim Ngài bị tên lính Roma đâm thủng, nước và máu dốc xuống hết, lúc đó mới có
một người duy nhất, là người đầu tiên trong loài người, lại là người ngoại đạo,
đó là ông sĩ quan Roma chỉ huy thi hành bản án đóng đinh Đức Giêsu treo lên
thập giá, ông nhìn Ngài bị đâm vào cạnh sườn, ông vội hô lên : “Đích
thực người này là Con Thiên Chúa” (Mc 15,39). Lời tuyên xưng Đức Tin
này, ông sĩ quan Roma đã được Đức Giêsu cứu độ,vì Ngài đã nói: “Sự sống đời đời đó là nhận biết Cha,Thiên
Chúa duy nhất và chân thật,và nhận biết Đấng Cha đã sai đến, là Giêsu Kitô”
(Ga 17,3).
Như
vậy vào lúc Đức Giêsu bị đâm, Ngài mới mở miệng kẻ nào nhìn lên Hy Tế Thập Giá
của Ngài, thì Ngài cho họ hết câm. Ta lại biết nước từ tim Đức Giêsu đổ ra khơi
nguồn Bí tích Thánh Tẩy và Máu của Ngài khơi nguồn Bí tích Thánh Thể.
Vậy
hết thảy những ai tin Chúa Giêsu là Đấng Cứu Độ duy nhất mà lãnh Thánh Tẩy gia
nhập Hội Thánh Công Giáo, thì được dự tiệc Thánh Thể. Có dự tiệc Thánh Thể,
Chúa mới làm cho biết nghe và công bố Tin Mừng cứu độ. Ta còn biết mỗi khi được
hiệp dâng Thánh Lễ, Chúa Giêsu lại tái thực hiện cuộc tạo dựng con người trở
nên thụ tạo mới (x 2Cr 5,17). Chân lý này đã được báo trước qua việc Đức Giêsu
chữa lành anh điếc và ngọng. Phép lạ này xem ra như Ngài giấu nghề, vì Ngài
tách anh ra khỏi đám đông không cho ai thấy. Ngài làm thế để cho mọi người nhớ
lại khi Chúa tạo dựng Adam, lúc ấy cũng chưa có ai thấy Ngài làm : Chúa lấy đất
nắn tạo Adam (x St 2,7), diễn tả Ngài là Thợ Gốm đại tài. Vì thế ngôn sứ Isaia
nói : “Lạy Đức
Chúa, Ngài là Cha chúng con ; chúng con là đất sét, còn thợ gốm là Ngài,chính
tay Ngài đã làm ra tất cả chúng con” (Is 64,7).
Thế
nên anh điếc và ngọng cũng chỉ là cục đất sét trong tay Đức Giêsu. Người thợ
gốm muốn nắn cục đất sét thành tác phẩm ông muốn, thì ông phải lấy đất sét nhào
nặn với nước. Thế nên Đức Giêsu đụng tay vào lỗ tai anh và nhổ nước miếng vào
lưỡi anh, rồi Ngài ngước mắt lên trời rên một tiếng rồi nói : “Ephata”, nghĩa
là “hãy mở ra”. Lập tức tai anh được mở ra, lưỡi như hết bị buộc lại, anh nói
được rõ ràng (x Mc 7,33-35 : Tin Mừng).
Phép
lạ này là dấu chỉ về những ai tin vào Chúa Giêsu Phục Sinh, thể hiện bằng việc
lãnh nhận nước của Bí tích Thánh Tẩy, khơi nguồn từ nước trong cơ thể Đức
Giêsu, và được lãnh nhận Bí tích Thánh Thể, là được Chúa Giêsu Phục Sinh động
vào. Ai được như thế mới trở nên con người hoàn hảo là tích cực loan báo Tin
Mừng cứu độ cho muôn dân, mà không ai có thể cấm cản được.
Thực
vậy, ông Marcô đã ghi lại bốn lần Đức Giêsu làm phép lạ cứu người, thì cả bốn
lần này Ngài đều cấm không ai được nói về Ngài :
- Lần I :
Cấm người cùi đã được Đức Giêsu
chữa lành (x Mc 1,40-45).
-
Lần II : Cấm ông Giairo
sau khi Đức Giêsu cho con ông thoát tay tử thần (x Mc 5,35-43).
-
Lần III: Cấm người điếc và ngọng sau khi anh đã được
Đức Giêsu chữa lành (x Mc 7,31-36 : Tin Mừng).
-
Lần IV: Cấm người mù
được Đức Giêsu mở mắt (x Mc 8,22-26).
Bốn lệnh cấm trên, thì lệnh cấm thứ 1 và 3 không được
tôn trọng : chữa người cùi và chữa người
điếc-ngọng. Sự nghịch lý này có ý nhấn mạnh : Con người nói về Thiên Chúa
phải phát khởi từ tình yêu Đức Kitô thúc bách (x 2Cr 5,14), chứ không phải do
Luật cho phép hay Luật bắt phải làm. Do đó cả đến Con Thiên Chúa cũng không cấm
nổi ai nói về Ngài là Đấng Cứu Độ duy nhất! Thánh Phaolô là hiện thân người
không tuân lệnh cấm nói về Chúa. Ông tự hào :
-
Tôi có sự thật về Đức
Kitô, thì không ai bịt miệng tôi được (2Cr 11,10).
-
Sống là để hoạt động có
hiệu quả trong việc rao giảng Tin Mừng, chết là một mối lợi (Pl 1,21-22).
-
Vô phúc cho tôi nếu tôi
không rao giảng Tin Mừng, tự ý làm việc đó thì tôi có công, còn nếu ngoài ý tôi
thì đó là trách nhiệm Chúa đã ký thác cho tôi (1 Cr 9,16).
-
Tôi cam đoan không
nhúng tay vào việc đổ máu người nào, vì tôi không thiếu sót việc loan báo Tin
Mừng (Cv 20,26-27).
Chính nhờ rao giảng Tin Mừng không những bảo đảm ơn
cứu độ cho mình, mà còn cho cả muôn dân tộc, nên thánh Phaolô nói : “Nếu miệng bạn tuyên xưng Đức Giêsu là Chúa,
và lòng bạn tin rằng Thiên Chúa đã làm cho Người sống lại từ cõi chết, thì bạn
sẽ được cứu độ. Quả thế, có tin thật trong lòng, mới được nên công chính ; có
xưng ra ngoài miệng, mới được ơn cứu độ” (Rm 10, 9-10). Vì việc rao giảng
Tin Mừng cần thiết như thế, nên thánh Tông Đồ nhắc nhở cho môn đệ của mình là
ông Timôthêu : “Hãy rao giảng Lời Chúa,
hãy lên tiếng khi thuận cũng như lúc nghịch. Hãy nhẫn nại và chủ tâm dạy dỗ,vì
có thời người ta không chịu nghe giáo lý lành mạnh, sự thật thì họ ngoảng đi,
còn chuyện bá láp thì xô lại theo dục vọng mà kiếm đủ thứ thầy” (2Tm
4,2-4). Vì nếu loài người không được nghe Tin Mừng phát xuất từ Phụng Vụ Hội
Thánh Công Giáo, để chỉ tôn thờ Thiên Chúa duy nhất qua Hy Tế của Chúa Giêsu,
như Ngài nói với người phụ nữ lạc giáo xứ Samari : “Giờ đã đến -và chính là lúc này đây- giờ những người thờ phượng đích
thực sẽ thờ phượng Chúa Cha trong thần khí và sự thật,vì Chúa Cha tìm kiếm
những ai thờ phượng Người như thế” (Ga 4,23), thì chắc chắn đưa đến đố kỵ
chia rẽ nhau. Thảm họa này Kinh Thánh đã minh chứng cho mọi người biết : Vì vua
Salômôn chiều theo các bà vợ ngoại giáo xây nhiều chùa miếu đối diện với thánh
điện Giêrusalem, thay vì đến Giêrusalem tôn thờ Chúa, thì lại vào đền thờ các
thần ngoại. Đây là việc gở lạ! (x 1V 11,1-13). Vì tội lỗi của vua Salômôn mà
Chúa đã sai ngôn sứ Akhigia làm một việc lạ thường trước mặt ông Giaropam: Ông lấy chiếc áo choàng còn mới đang mặc xé
ra làm mười hai mảnh rồi ông nói với ông Giaropam : “Anh cầm lấy mười mảnh, vì Đức Chúa Thiên Chúa Israel phán như sau :
“Này Ta sẽ giựt vương quốc khỏi tay Salômôn, để trao cho ngươi mười chi tộc”
(1V 11,29-31 : Bài đọc năm chẵn). Thực vậy, ông Giaropam đã chống lại vua
Salômôn và ông lôi kéo mười chi họ lập nước Israel chiếm miền Bắc và miền Trung
nước Do Thái.Chỉ còn hai chi họ Giuda và Simêon ở miền Nam thuộc quyền
vua Salômôn. Nhưng Thiên Chúa không bao giờ muốn diệt dân đã được Ngài chúc
phúc. Thực vậy vì Chúa đã hứa cho dòng vua Đavid – Thân phụ vua Salômôn – được
vĩnh cửu (x 2Sm 7,12), nên Ngài đã dùng miệng ngôn sứ Akhigia nhắc đến lời hứa
: “Nó vẫn còn một chi tộc (đó là chi
tộc Giuđa, mặc dù ở miền Nam còn có chi tộc Simêon, nhưng Đavid thuộc chi tộc
Giuđa), vì nể Đavid, tôi tớ của Ta, và vì
Giêrusalem thành đô Ta đã chọn trong tất
cả dân tộc Israel” (1V11,32 : Bài đọc năm chẵn). Lời hứa cứu độ này được
Chúa Giêsu thực hiện cuộc thanh tẩy và tái sinh những ai tin vào Ngài (x Cv
2,38), là Con vua Đavid. Đó là lý do Đavid đã gọi Ngài là Thiên Chúa (x Mc
12,37), để hết thảy dòng giống Adam, Eva cảm nghiệm được tình Chúa thương cứu
độ đối với những người biết cất lời cầu
: “Lạy Chúa, xin mở lòng chúng con, để
chúng con lắng nghe Lời của Con Chúa” (Cv 16,14b : Tung Hô Tin Mừng), mà
cất cao lời tuyên xưng Đức Tin : “Hạnh
phúc kẻ lỗi lầm mà được tha thứ” (Tv 32/31,1a : ĐC năm lẻ). Thánh Isaac
Viện Phụ Đan Viện Sao Mai nói : “Có hai điều chỉ thích hợp một mình Thiên
Chúa, đó là vinh dự được nghe thú tội và quyền tha thứ. Chúng ta phải thú tội
với Người và trông được Người thứ tha cho chúng ta. Nhưng Chúa Kitô chỉ muốn
tha tội cho chúng ta qua Hội Thánh Người thiết lập”.
Vào năm
1934 giáo lý viên Gioan Caduna được linh mục Palexi sai đến vùng Ramxi miền bắc
Ấn Độ để truyền giáo cho dân làng Majoribua, là những người rất sùng kính tôn
thờ vật linh. Sau 18 năm (1952), cha Palexi trở lại vùng này, thấy cả làng đã
theo Đạo và sống Đức Tin rất sốt sắng! Cha Palexi hỏi thăm về giáo lý viên
Gioan Caduna, thì được biết anh đã chết lâu rồi. Họ kể lại rằng:
Thời
gian đầu mới đến, anh Caduna bị dân làng tẩy chay, và nói :
- Ở đây
không có chỗ cho Chúa của mày!
Gioan
Caduna đáp :
- Tôi
không thể đi nơi khác, vì tôi đã được sai đến đây để nói về Thiên Chúa, Đấng
sáng tạo và làm Chủ muôn loài, Ngài yêu thương hết mọi người, nên đã chấp nhận
chết bi đát trên thập giá, nhưng chưa tới ba ngày sau, Ngài đã sống lại, ai tin
vào Ngài thì được Ngài cứu độ!
Thế
nhưng dân làng vẫn quyết liệt không muốn nghe vào lời anh Caduna giảng dạy,
đuổi anh đi. Anh đành phải chấp nhận ra khỏi làng và đã dựng một cái chòi bên
cạnh ngôi làng để hằng ngày cầu nguyện cho dân đừng cứng lòng tin! Dân làng mỗi
khi đi qua đều phỉ nhổ và mạt sát Caduna :
- Cút
đi cho xa, chúng tao không muốn thấy mặt mày, và chúng tao càng không muốn nghe
mày nói về ông Giêsu nào đó!
Caduna
trả lời :
- Tôi
không đi đâu được, Chúa Giêsu đã chết vì yêu mọi người, nên tôi cũng muốn chết
ở đây, để chứng tỏ lòng tôi rất yêu dân Majoribua.
Thời
gian sau, Caduna chết vì bị bệnh sốt rét và sống quá túng thiếu. Lúc đó dân
làng mới tỏ ra thương anh, họ tổ chức an táng anh cách tử tế. Không bao lâu, tất
cả dân trong làng xin theo đạo Công Giáo hết!
Anh
Gioan Caduna đã đáp trả được tiếng Chúa Giêsu hỏi : “Con có yêu Thầy hơn những người này không?”(Ga 21,15-17). Vì “thế giới sẽ thuộc về tay ai biết yêu!” (Lm. Ga.
Maria Vianey).
THUỘC LÒNG
Tôi có sự thật về Đức Kitô, không ai bịt
miệng tôi được ! (2 Cr 11,10)
http://phaolomoi.net
Lm GIUSE
ĐINH QUANG THỊNH