BÀI GIẢNG
CHÚA GIÊSU LÀ VUA DAVID MỚI - ĐẤNG GIẢI PHÓNG
Lý do thánh sử Matthêu đã ghi lại cuộc Truyền Tin cho ông Giuse, chồng
Đức Maria (x Mt 1,18-24: Tin Mừng), để xác tín rằng:
-
Đức Giêsu vừa là con của loài người, vừa
là Con Thiên Chúa.
-
Đức Giêsu làm ứng nghiệm lời các ngôn sứ
đã báo trước về Ngài.
-
Để người ta gọi con trẻ là Emmanuel:
Thiên Chúa Ở Cùng Chúng Ta .
-
Mẹ Maria sinh Con vẫn là một Trinh Nữ:
Khuôn mẫu của Hội Thánh.
1/ ĐỨC GIÊSU VỪA LÀ CON LOÀI NGƯỜI, VỪA LÀ CON THIÊN
CHÚA
Ta biết 17 câu đầu của Tin Mừng Matthêu viết về gia phả của Đức Giêsu: “Abraham sinh Isaác, Isaác sinh Giacob, Giacob
sinh Giuđa, … sinh Giuse chồng của Đức Maria, bà là Mẹ Đức Giêsu, cũng gọi là
Đấng Kitô” (x Mt 1,1-17).
Nếu ông Matthêu chỉ viết như thế thì độc gỉa hiểu Đức Giêsu là con của
ông Giuse và bà Maria theo nghĩa xác thịt! Do đó trình thuật Thiên thần Truyền
Tin cho ông Giuse nhằm xác định: Đức Giêsu là Con bởi xương thịt của Đức Maria,
đồng thời là Con Thiên Chúa. Bởi vì Maria có thai là do quyền năng Chúa Thánh
Thần,chứ không phải do ý muốn xác thịt của ông Giuse và bà Maria. Ông Giuse chỉ
là cha nuôi, người cha theo pháp luật, để Con Thiên Chúa sinh ra thuộc dòng tộc
vua Đavid, vì ông Giuse thuộc dòng Đavid. Và như thế là để ứng nghiệm lời ngôn
sứ Giêrêmia đã báo trước: “Ta sẽ làm nảy
sinh cho nhà Đavid một chồi non chính trực. Vị vua lên ngôi trị vì sẽ là người
khôn ngoan tài giỏi, danh hiệu là “Đức Chúa Sự Công Chính Của Chúng Ta”. Ngài
giải phóng dân Ngài như ông Môsê đưa dân ra khỏi ách nô lệ Ai Cập ; như vua Cyros
giải phóng cho dân Chúa khỏi ách nô lệ Babylon trở về tái thiết đền thờ Giêrusalem” (Gr 23,5-8:
Bài đọc). Để “triều đại Người đua nở hoa
công lý và thái bình thịnh trị đến muôn đời” (Tv 72/71,7: Đáp ca).
2/ ĐỨC GIÊSU LÀM ỨNG NGHIỆM LỜI CÁC
NGÔN SỨ ĐÃ BÁO TRƯỚC VỀ NGÀI
Thực vậy,cuộc Truyền Tin thứ nhất của sứ thần Gabriel báo cho Đức Maria
sinh Con Thiên Chúa,do quyền năng Chúa Thánh Thần. Nếu sứ thần Gabriel không Truyền
Tin cho ông Giuse, thì Con Thiên Chúa không thể sinh vào đời cách tốt đẹp được
! Bởi vì lúc ấy ông Giuse “định tâm bỏ
Maria trốn đi một cách kín đáo” (Mt 1,19-20: Tin Mừng). Vì trước khi ông
Giuse được giao phó trách nhiệm, ông rất lúng túng khi thấy Maria có thai. Sự
lúng túng của ông Giuse trước bào thai của Đức Maria đã diễn tả sự bất lực của
Lề Luật:
* Nếu ông Giuse không biết Thai Nhi do Chúa Thánh Thần, thì theo Luật
ông phải tố cáo Maria đã ngoại tình và ly hôn (x Dnl 22,13-27). Điều này ông
không dám, vì ông biết Maria là người rất nhân đức.
* Nếu ông biết Thai Nhi đó là do Chúa Thánh Thần, cứ theo Luật ông nhận
Maria, thì đương nhiên ông là cha Đấng Cứu Thế,nhiệm vụ cao cả này, khi chưa
được trao trách nhiệm, làm sao ông dám nhận ?
* Nếu ông âm thầm trốn đi, thì đó là cách gián tiếp tố cáo Maria ngoại
tình,chắc chắn sẽ bị dân ném đá! Làm sao ông dám trốn ? Nhất là khi ông đã biết
rõ Maria có thai là do Chúa Thánh Thần !?
Rõ ràng ông Giuse hành động cách nào cũng có hại cho người vợ hiền và Thai
Nhi vô tội! Qủa thật, Luật bất lực giải quyết cho lương tâm của ông ! Bởi thế
thánh Phaolô qủa quyết: “Luật giam chúng
ta trong tội !” (Gl 3,22) Trong lúc còn đang bối rối như thế thì chính
tiếng Chúa nói qua lương tâm ông (được mộng báo), soi sáng cho ông phải quyết
định đón Maria về, để Con Thiên Chúa thuộc dòng Đavid theo pháp luật, vì “Thiên Chúa đã sai Con mình tới, sinh bởi một
người đàn bà, và sống dưới Lề Luật, để chuộc những ai sống dưới Lề Luật, hầu
chúng ta nhận được ơn làm nghĩa tử.” (Gl 4,4). Nghĩa là nhờ ông Giuse theo
lệnh Chúa truyền đã đón Maria về, nhờ vậy Maria không bị Luật lên án, để qua đó
Đức Maria cũng theo Lệnh Đức Giêsu nhận ta, cho ta khỏi bị án của Lề Luật (x Ga
19,27 ; Gl 3,24), nhờ Hy Tế của Chúa Giêsu mà ông Giuse đã báo trước, vì ông
được gọi là “người công chính” (x Mt 1,19), có nghĩa là ông đã dâng hiến Maria
người yêu của ông cho Thiên Chúa. Như thế, sự dâng hiến của ông Giuse khác nào
ông Abel dâng con chiên cho Thiên Chúa và được Người chấp nhận (x St 4,4). Bởi
lẽ hình ảnh con chiên mà ngôn sứ Nathan đã dùng để ám chỉ về một người vợ (x
2Sm 12). Nói cách khác, ông Giuse dâng hiến người vợ cho Thiên Chúa, báo trước
Hy Tế của Chúa Giêsu, Ngài chính là Con Chiên, là Của Lễ trong Hy Tế mới được
Chúa Cha chấp nhận. Đó là lý do mà chỉ có thánh sử Matthêu gọi ông Giuse và ông
Abel là “người công chính” (x Mt 1,19 =
Mt 23,35).
3/ LÝ DO NGƯỜI TA GỌI CON TRẺ LÀ
EMMANUEL
Người ta gọi Đấng Cứu Thế là Emmanuel,
viết tắt là Noel, nghĩa là “Thiên Chúa Ở
Cùng Chúng Ta” (x Mt 1,23: Tin Mừng),báo trước sự Phục Sinh của Ngài.Vì chỉ
khi Chúa Giêsu sống lại, Ngài mới nói với các Tông Đồ: “Thầy ở cùng các con mọi ngày cho đến tận thế” (x Mt 28,20), đồng
nghĩa với “Thiên Chúa Ở Cùng Chúng Ta”.
Như vậy, tác giả Matthêu có ý nói: Con Thiên Chúa được sinh ra an toàn nhờ ông
Giuse tùng phục ý Chúa, làm cho Con Thiên Chúa ở cùng loài người để cứu chuộc
nhân loại. Đúng như ý nghĩa tên Giêsu mà Thiên thần đã báo Đức cho Maria và ông
Giuse đặt cho Con Trẻ (x Lc 1,31 ; Mt
1,21: Tin Mừng) [Giêsu phiên âm bởi tiếng Hy Bá là Yehôshua, hoặc Yéshua có
nghĩa Giavê là sự cứu độ], và Ngài chỉ thực sự cứu độ khi tự quyền từ cõi chết
sống lại.
4/ MẸ MARIA SINH CON VẪN LÀ MỘT TRINH
NỮ: KHUÔN MẪU CỦA HỘI THÁNH.
Ta biết truyền thống Do Thái thời Cựu Ước không mong Đấng Cứu Thế sinh
ra bởi một trinh nữ. Đối với họ, “trinh”là một sự tủi nhục, như con gái ông
Giéptê than khóc suốt hai tháng vì cô còn trinh, không xứng đáng để cha sát tế
làm hiến vật tạ ơn Thiên Chúa đã giúp cha cô thắng quân thù ! (x Tp 11, 29-40).
Thực ra, lời ngôn sứ Isaia (7,14) theo nguyên bản bằng tiếng Hipri chỉ nói
người nữ ấy là “Almah”có nghĩa là cô vợ trẻ hay một thiếu nữ (không xác định là
còn hay mất trinh) ; nhưng Bản 70, viết bằng tiếng Hy Lạp lại xác định người nữ
ấy là “Parthenos” (trinh nữ). Đức Giêsu và các Tông Đồ dùng bản văn này để
giảng dạy, và sau này thánh Giêrônimô dịch bản văn này sang tiếng La Tinh, gọi
là bản văn Vulgata (bản Phổ Thông), ông cũng xác định là Trinh Nữ như bản 70, bản này được Hội Thánh dùng trong Phụng Vụ.
Vậy đức đồng trinh của Mẹ Maria báo trước về Hội Thánh là Trinh Nữ, Hiền
Thê của Chúa Kitô (x Mt 25,1t ; 2 Cr 11,2).
Tới đây, người Công Giáo có dịp đối thoại với anh em Tin Lành, khi họ
dựa vào ba chứng từ trong Thánh Kinh để phủ nhận việc Đức Maria sau khi sinh Con
không còn đồng trinh. Điều này nghịch
với Giáo Lý Công Giáo, chúng ta phải trả lời thế nào?
+ “Đức Giêsu đang giảng dạy, Mẹ Ngài và ANH EM đến tìm” (Lc 8,20).
Anh em Tin Lành hiểu đó là anh em ruột của Đức Giêsu.
- Giáo Lý Công giáo trả lời:
Từ “ANH EM”trong tiếng Hipri (Do Thái) là Ăch hoặc trong tiếng Hy Lạp là
Adelphoi, vừa có nghĩa là anh em ruột, cũng có nghĩa là anh em họ, giống như
tiếng Việt Nam, con chú gọi là em, con bác thì gọi là anh. Ông Lót là cháu của
ông Abraham, và Abraham là chú của Lót, thế mà ông Abraham gọi cháu Lót bằng từ
Adelphoi (x St 13,8 ; 14,12 ; 29,10).
Nếu Đức Giêsu còn những người anh em khác, thì không lẽ trước giờ chết Ngài
không để cho anh em ruột đưa Mẹ về nhà mình, mà Ngài lại phải nhờ ông Gioan? (x
Ga 19,25-27).
Về mặt Tín Lý, Đức Maria là khuôn mẫu của Hội Thánh, là hình ảnh Hội
Thánh vẹn toàn thời cánh chung, mà Hội Thánh được Đức Giêsu ví như những cô
trinh nữ đi đón chàng rể vào dự tiệc cưới (x Mt 25,1-13). Do đó, Hội Thánh tin
Đức Maria là hiện thân những cô trinh nữ khôn ngoan theo chàng rể vào dự tiệc
cưới. Hội Thánh được gọi là Trinh Nữ giống Đức Maria, có nghĩa là Đức Maria
sinh Đức Giêsu là Đầu của Hội Thánh, Mẹ không liên hệ tới một người khác phái,
thì Hội Thánh sinh các Kitô hữu là chi thể trong Thân Mình Mầu Nhiệm Chúa Giêsu
Phục Sinh: Cả Đức Maria, cả Hội Thánh đều sinh Chúa Giêsu Phục Sinh cách mầu
nhiệm, mà không liên hệ với một người trần thế nào.
+ Anh em Tin Lành lại vịn vào câu: “Bà Maria đã sinh CON ĐẦU LÒNG” (Lc
2,7), mà đã sinh con đầu lòng thì có nghĩa là còn sinh những người con khác !
- Giáo Lý Công Giáo trả lời: Ông
Luca ghi người con đầu lòng của Đức Maria là có ý nhấn mạnh: Gia đình Nadareth
rất cẩn thủ giữ Lề Luật Chúa (x Lc 2,22-40). Do đó nói đến con đầu lòng chỉ có
ý nhấn mạnh: Maria dâng con đầu lòng cho Thiên Chúa theo Luật Do Thái quy định
(x Xh 13).
+ Anh em Tin Lành lại dựa vào câu: “Giuse và Maria không ăn ở với nhau CHO ĐẾN KHI bà sinh con” (Mt
1,25). Có nghĩa là anh em Tin Lành vẫn tin Đức Giêsu được sinh ra là do quyền
năng Chúa Thánh Thần, lúc ấy Đức Maria vẫn còn là một trinh nữ. Nhưng sau đó
lại ăn ở với ông Giuse và sinh nhiều người con khác !
- Giáo Lý Công Giáo trả lời: Thành
ngữ “CHO
ĐẾN KHI”trong Thánh Kinh sử dụng có ý công bố một điều đã có, đang có
và không bao giờ mất, như Đức Giêsu nói với các môn đệ: “Thầy ở cùng anh em mọi ngày cho
đến tận thế” (Mt 28,20), thì không có nghĩa là Chúa chỉ ở với Hội Thánh
cho đến ngày tận thế là thôi ! Mà
phải hiểu rằng Chúa đã ở với Hội Thánh,đang ở với Hội Thánh và ở với Hội Thánh
mãi mãi ! Do đó, câu nói “Giuse và Maria
không ăn ở với nhau cho đến khi bà
sinh con” phải hiểu theo nghĩa này.
Sau khi chúng ta đã tìm hiểu và suy niệm cuộc Truyền Tin cho Đức Maria
và thánh Giuse, để chúng ta phải xác quyết: Dù Thiên Chúa thương chúng ta đến
thế, và dù Ngài là Đấng toàn năng và giàu lòng xót thương (x Ep 2,4), nhưng
Ngài vẫn cần đến Mẹ Maria và thánh Giuse cộng tác: Thánh Giuse và Mẹ Maria đã
hy sinh hưởng đời sống vợ chồng, để hoàn toàn làm theo ý Chúa: Mẹ Maria là Evà
mới không giống như Evà xưa, Mẹ hoàn toàn xin vâng nghe Lời Chúa, để quyền năng
Lời Chúa hoạt động nơi Mẹ (x Lc 1,38), còn thánh Giuse, ba lần ông mau mắn trỗi dậy làm theo ý Chúa, để Con Thiên
Chúa hai lần thoát chết, trở thành Môsê mới giải phóng cho muôn dân thoát Satan,
thoát tử thần.
a. Mt 1,24: Được mộng báo, ông Giuse đã mau mắn trỗi dậy rước Maria về nhà, để hai Mẹ - Con khỏi bị ném đá, khỏi
chết nhục vì Luật !
b. Mt 2,13: Được mộng báo, ban đêm ông Giuse trỗi dậy đưa Hài Nhi và mẹ Ngài trốn qua Ai Cập, thoát khỏi bàn tay
độc ác của vua Hêrôđê.
c. Mt 2,20: Được mộng báo, ông Giuse lại trỗi dậy đưa mẹ con Maria trở về quê nhà, để thực hiện sứ mệnh cứu
dân như ông Môsê.
Ba lần ông Giuse trỗi dậy làm theo ý Chúa là báo trước: Đức Giêsu con
ông Giuse sau ba ngày được an táng trong mồ,Ngài cũng trỗi dậy (Phục Sinh), để đưa cả loài người thoát sự dữ vào cõi sống
hạnh phúc vĩnh hằng, giống như ông Giuse trỗi
dậy thực thi ý Chúa để làm cho Đức Maria và Hài Nhi Giêsu thoát sự dữ, hầu
cả hai Mẹ-Con cũng đưa cả loài người thoát sự dữ vào sự sống hạnh phúc vĩnh
hằng.
Nhưng Chúa không chỉ trao trách nhiệm cho thánh Giuse và Mẹ Maria, mà
còn muốn trao cho cả chúng ta nữa, “những
kẻ đã được hiệu triệu theo Đức Kitô để giảng truyền sự vâng phục Đức Tin cho
mọi dân tộc” (x Rm 1,6). Vì Emmanuel không chỉ ứng nghiệm nơi Thánh Gia
Thất, mà còn ứng nghiệm nơi tâm hồn mọi người. Ơn này đã được tiên báo qua hình
ảnh tấm lông chiên của ông Ghêđêôn:
Ông Ghêđêôn khi làm thủ lãnh dân Do Thái, đang bị áp lực của quân
Mêđian. Ông lo lắng không biết có nên xuất chinh đánh Mêđian hay xin hàng? Ông
đã cầu nguyện xin Chúa cho ông một dấu: Nếu tấm lông chiên đặt ngoài sân,qua
một đêm mà tấm lông chiên đẫm sương, còn chung quanh đất khô ráo, thì đó là dấu
Chúa ủng hộ ông xuất quân. Qủa nhiên, sáng hôm sau, ông vắt được cả tô nước từ
tấm lông chiên, đất xung quanh vẫn khô ráo! Đó là dấu chỉ lần thứ nhất Thiên
Chúa chiếm đoạt Maria – trong cuộc Truyền Tin – để Maria trở nên nguồn ơn cứu
độ cho muôn dân.
Hôm sau, ông lại đặt tấm lông chiên ngoài sân, và cầu xin: Nếu Chúa ủng
hộ ông xuất binh, thì cho tấm lông chiên khô ráo, còn đất chung quanh thì ướt
đẫm.Qủa đúng như lời ông xin. Thế là ông hạ lệnh xuất quân chinh phạt Mêđian
trong chiến thắng lẫy lừng ! (x Tp 6,36-40) Đó là dấu chỉ lần thứ hai,Thiên
Chúa chiếm đoạt ông Giuse – trong cuộc Truyền Tin cho ông – để ông Giuse làm
cho mọi người nhận biết Lời Đức Giêsu cứu độ muôn dân. Thực vậy, từ khi Đức Giêsu
bắt đầu giảng ở đền thờ Giêrusalem (Hội Thánh) lúc lên 12 tuổi, thì sau đó không
còn ai biết đến ông Giuse nữa, vì ông đã hoàn tất nhiệm vụ của mình ! (x Lc
2,41t).
Mùa Vọng nào trong các Giáo đường cũng vang lên tiếng ca: “Trời cao hãy đổ sương xuống, mây hãy đổ mưa,
mưa đức công chính” (x Is 45,8) trong niềm xác tín:
-
Sương trời là Ngôi Hai.
-
Tấm lông chiên là Đức Maria (thấm sương trời)
-
Đất là thánh Giuse và mọi người trong Hội Thánh
(cũng thấm sương trời)
Vậy Đấng Emmanuel đã ở cùng Đức Maria, ở cùng thánh Giuse (sương đẫm
lông chiên) chưa đủ bảo đảm chắc chắn ơn cứu độ cho ta, mà Đấng Emmanuel còn
phải ở với tâm hồn mọi người (đất đẫm sương trời), đặc biệt nhất là lúc ta rước
Lễ, mới đảm bảo ơn cứu độ cho người được Chúa thương ! Ta hãy cầu nguyện: “Lạy Chúa là Thủ Lãnh nhà Israel, Ngài đã ban
Lề Luật cho ông Môsê trên núi Sinai, xin ngự đến mà ra tay cứu chuộc loài người”
(Tung Hô Tin Mừng).
THUỘC LÒNG
Trời cao hãy đổ sương xuống, mây hãy đổ mưa, mưa đức công
chính! (Is 45,8)
http://phaolomoi.net
Lm GIUSE ĐINH QUANG THỊNH