BÀI GIẢNG
LỜI CHÚA LÀM CHO NGƯỜI LÀNH KẺ DỮ SỐNG HÒA HỢP
Đức Giêsu nói với ông Nicôđêmô : “Thiên
Chúa yêu thế gian đến nỗi đã ban Con Một,để ai tin vào Con của Người thì khỏi
phải chết, nhưng được sống muôn đời”(Ga 3,16). Nhưng muốn được Ngài cứu độ
ta phải tin yêu Ngài, thể hiện bằng “chịu Phép Rửa nhân danh Đức Giêsu Kitô để
được ơn tha tội và được lãnh nhận ân huệ là Thánh Thần” (Cv 2,38). Vì “dưới gầm trời này, không một danh nào khác
đã được ban cho nhân loại, để chúng ta phải nhờ vào danh đó mà được cứu độ”
(Cv 4,12), đồng thời ta còn phải tin và hiệp thông với Hội Thánh là Thân Thể Mầu
Nhiệm Chúa Kitô (x Ep 5,23b). Sau khi Chúa Giêsu phục sinh, Ngài và Chúa Cha
chỉ nói với loài người qua Hội Thánh Công Giáo mà thôi. Như Đức Giêsu đã nói “Cha tôi giao phó mọi sự cho tôi. Và không ai
biết Người Con là ai trừ Chúa Cha, cũng không ai biết Chúa Cha là ai, trừ Người
Con và kẻ mà Người Con muốn mạc khải cho. Chúa Cha đã giấu không mạc khải cho
bậc khôn ngoan thông thái biết những điều này, nhưng lại mạc khải cho những
người bé mọn. Vâng, lạy Cha, vì đó là điều đẹp ý Cha” (Lc 10,21-22: Tin
Mừng). Như vậy ai đã thuộc về Hội Thánh, thì đều được Chúa mạc khải cho, để dù
họ có sống chung với “dã thú” (kẻ ác), họ cũng giống “Đức Giêsu trong hoang địa bốn mươi đêm ngày, sống giữa dã thú mà chúng
không làm hại Ngài, và các thiên thần đến hầu hạ” (Mc 1,12-13 = Is 11,6-9 :
Bài đọc). Một khi chúng ta đã xác tín Chúa Giêsu chỉ trao cho Hội Thánh quyền công
bố Lời Ngài,để loài người được sống hạnh phúc và bình an, thì ta phải tuyên
xưng cho đồng loại về Đức Tin của mình.
I. CHỈ CÓ HỘI THÁNH CÔNG GIÁO MỚI NÓI ĐÚNG Ý CHA TRÊN
TRỜI
Xác quyết như thế không phải là người Công Giáo muốn “vơ phần chăn” về
phía mình, mà căn cứ vào một số chứng từ trong Mạc Khải sau đây :
1- Chúng ta biết Đức Giêsu chấm
dứt giảng và trao quyền giáo huấn cho Hội Thánh từ lúc Ngài bị đưa ra tòa án. Thực vậy, thượng tế Caipha – chánh án – hỏi Đức Giêsu : “Ông dạy giáo lý thế nào, nói cho chúng tôi
nghe ?” Đức Giêsu đáp ngay : “Tôi đã
không nói gì bí mật cả, tôi đã nói công khai nơi các hội đường và Nhà Thờ, hằng
ngày tôi giảng dạy ở đó, cứ vào đó mà hỏi người đã nghe tôi nói !” (Ga
18,19-21).
Chúng ta để ý đến hai điều Đức Giêsu nói với thượng tế Caipha.
· “Hằng ngày tôi giảng dạy trong Nhà
Thờ”: Đó chính là ở Nhà Thờ Hội
Thánh hằng ngày giảng dạy cho dân (x Cv 2,42-46). Đức Giêsu chỉ có hai lần
trong đời Ngài giảng tại đền thờ : Lúc 12 tuổi (x Lc 2,41t) và khi Ngài đuổi
quân buôn bán ra khỏi Đền thờ (x Lc 19,47).
· “Vào Nhà Thờ hỏi người nghe tôi
nói”: Tức là vào Nhà Thờ nghe lời Hội Thánh giảng dạy khi cử hành Phụng vụ,
nhất là Thánh Lễ, dù không ai thấy Chúa Giêsu, nhưng Đức Tin dạy ta trong Thánh
Lễ, Chúa Giêsu trực tiếp giảng dạy (x Dt 1,1-2). Vì Đức Giêsu đã nói : “Ai nghe lời môn đệ Ta là nghe Ta, và hết
thảy ai khước từ môn đệ Ta là khước từ Ta, và khước từ Đấng đã sai Ta” (Lc
10,16).
Một kịch tính xảy ra nơi tòa án : Nơi tòa án, khi Đức Giêsu trả lời câu
hỏi giáo lý của thượng tế Caipha : “Cứ
hỏi người nghe tôi nói”, thì ở ngoài sân tòa, người ta liền hỏi ông Phêrô,
thủ lãnh Nhóm Mười Hai đã từng được nghe Đức Giêsu giảng dạy :
- Chắc bác thuộc về ông
Giêsu ?
Ông Phêrô giật bắn người lên, chối ngay :
- Tôi không hề biết ông
ấy.
Ở sân ông Phêrô chối Thầy, thì trước tòa án, Đức Giêsu lại giục người ta
: “Cứ hỏi người đã nghe tôi nói”. Thế
là người khác lại đến hỏi ông Phêrô :
- Tôi biết bác ở vườn Cây
Dầu với ông Giêsu mà ?
Ông Phêrô lại kéo gân cổ lên thề :
- Tôi thật không biết gì
về ông Giêsu đó cả!
Đức Giêsu thấy Phêrô còn chối, Ngài lại bảo người ta:
- Cứ hỏi người nghe tôi
nói.
Thế là một đứa tớ gái cất tiếng hỏi ông Phêrô :
- Nghe giọng bác nói, tố
cáo bác là người Galilê, đồng hương với ông Giêsu? (Không biết người khác nghe
giọng ta nói, họ có nhận ra ta là người Công Giáo, thuộc về Đức Giêsu hay không?!)
Ông Phêrô vẫn quyết liệt chối :
- Tôi thề là tôi thật
không biết chị nói gì ?
Tức thì gà liền gáy, ông Phêrô sực nhớ lại lời Thầy đã nói cho ông biết:
“Trước khi gày gáy, con đã chối Ta ba lần
!” Ông òa lên khóc, tỏ dấu sám hối!
Sự việc trên đây đã xác quyết với mọi người : ĐỨC GIÊSU CHẤM DỨT GIẢNG,
VÀ NGÀI ĐÃ DỨT KHOÁT TRAO QUYỀN GIẢNG LỜI CHO HỘI THÁNH CÔNG GIÁO TỪ LÚC NGÀI
BỊ LÊN ÁN TỬ ! Dù những vị chủ chăn trong Hội Thánh có bất xứng như ông Phêrô
chối Thầy, Đức Giêsu cũng vẫn bảo mọi người : “Muốn biết giáo lý tôi dạy, cứ vào Nhà Thờ hỏi người đã nghe tôi nói!” Chứ Ngài không bảo ai đến gặp vị Thánh nào,
hay Thiên thần nào mà hỏi (x Ga 18,19t ; Mt 26,69t).
2- Để xác tín thêm tầm quan
trọng mọi người phải nghe Lời Chúa qua Hội Thánh Công giáo, chúng ta nhớ lại lúc Chúa Cha giới thiệu Con chí ái của Người với ba
môn đệ Đức Giêsu ở núi Hiển Dung, và Chúa Cha đã buộc mọi người phải nghe Lời
Con của Ngài giảng dạy, thì Đức Giêsu
lại ra lệnh cấm các Tông Đồ, không được nói lại cho ai Lời Cha mới
truyền, cho đến khi Con Người từ cõi chết sống lại ! (x Mt 17) Không lẽ Đức
Giêsu chống lại lời Chúa Cha vừa nói sao? Thưa không, Đức Giêsu bảo các Tông Đồ phải im lặng cho đến khi Con
Người từ cõi chết sống lại, vì hai lý do :
F Lời giảng của Đức Giêsu khi còn trên dương thế đã
có Mẹ Maria chỉ dẫn cho mọi người : “Hãy
đến cùng Giêsu, Ngài bảo gì cứ làm theo” (Ga 2,5).
F Khi Đức Giêsu chỗi dậy từ cõi chết, Ngài không
giảng cho dân, nhưng là Hội Thánh (x Mt 28,19-20). Vì Ngài đã chấm dứt giảng và
trao quyền giáo huấn cho Hội Thánh ngay từ lúc Ngài bị xử án, như chúng ta mới
xác quyết trên đây. Cho nên lệnh Đức Giêsu cấm các môn đệ không được nói lại
Lời Chúa Cha phán bảo “hãy nghe Lời Con
chí ái của Ta”, đã trở thành lời giải thích : LỜI CHÚA CHA BUỘC PHẢI NGHE
LỜI CHÚA GIÊSU, CHÍNH LÀ PHẢI NGHE LỜI GIẢNG CỦA HỘI THÁNH CÔNG GIÁO!
3- Tin Mừng chúng ta mới
được nghe, thánh sử Luca ghi nhận : “Được Thánh Thần tác động, Đức Giêsu hớn hở
vui mừng và nói: "Lạy Cha là Chúa Tể trời đất, Con xin ngợi khen Cha, vì
Cha đã giấu kín không cho bậc khôn ngoan thông thái biết những điều này, nhưng
lại mạc khải cho những người bé mọn.
Vâng, lạy Cha, vì đó là điều đẹp ý Cha” (Lc 10,21 : Tin Mừng).
- Chúa Cha không mạc khải cho “hạng
khôn ngoan thông thái” là những đầu mục và các thượng tế tự mãn đã nắm trọn
Chân Lý, vì đã thông suốt Luật Môsê, thế mà họ lại tìm cách diệt Đức Giêsu và ngăn
cản không muốn cho ai tin theo Ngài (x Ga 7,40-52).
- “Kẻ bé mọn” là người kiên
trì sống Đức Ái trong Hội Thánh Công Giáo, họ hoàn toàn thuộc về Chúa Kitô. Vì
thế, ta không chỉ hiểu “kẻ bé mọn” là trẻ con hay người thấp cổ bé miệng, nghèo
khổ, mà nhất là phải hiểu “kẻ bé mọn” là người thuộc về Hội Thánh Chúa Kitô.
Đan cử :
F Đức Giêsu bảo các môn đệ: “Nếu các con không trở nên trẻ nhỏ,thì sẽ không vào được Nước Thiên Chúa”
(Mt 18,3), và Ngài còn nói : “Hỡi các con
thơ bé, Ta chỉ còn ở với các con với các con một ít nữa thôi” (Ga 13,33). Tuy
thế “chúng con đừng sợ, hỡi đoàn chiên
nhỏ bé, vì Cha các con đã khấng ban Nước Trời cho các con” (Lc 12,32).
F Thánh Gioan cũng gọi các tín hữu bằng thuật ngữ “các con thơ bé” trong các thư ông viết
cho giáo đoàn, dù trong cộng đoàn có những người lớn tuổi hơn ông (x 1Ga
2,1.12.14.18.28).
4- Thực vậy sau khi ông
Phêrô – thủ lãnh Hội Thánh - tuyên xưng Đức Tin về Đức Giêsu : “Thầy là Đấng Kitô,Con Thiên
Chúa hằng sống”, thì được Ngài xác nhận ngay : “Này anh Simon, con ông Giona, anh thật là người có phúc, vì không phải
phàm nhân mạc khải cho anh điều ấy, nhưng là Cha Thầy Đấng ngự trên trời”. Trong khi đó có nhiều người ngoài Nhóm
Mười Hai nói tốt về Đức Giêsu : “Kẻ thì nói là ông Gioan Tẩy Giả, kẻ thì bảo
là ông Êlya, có người lại cho là ông Giêrêmia, hay một trong các vị ngôn sứ”. Thế mà Đức Giêsu không xác nhận là Cha trên trời cho họ nói, ngoại trừ ông
Phêrô (x Mt 16,13-20).
5- Cũng vì vậy mà Đức Giêsu
đã nói với mọi người : “Ai nghe
lời môn đệ tôi là nghe tôi và nghe Đấng đã sai tôi, và ai khước từ môn đệ tôi
là khước từ tôi, và khước từ Cha tôi” (Lc 10,16).
6- Vì chỉ có Hội Thánh Công
Giáo công bố Lời Chúa, nên thánh Phaolô đã nói với giáo đoàn Galata : “Dù các Thiên thần từ trời xuống trần gian đến giảng Lời Chúa khác
với chúng tôi, thì nó là đồ chúc dữ !” (Gl 1,8)
Vậy nếu có ai đó trăn trở muốn tìm hiểu Lời Chúa nhiều, khi đến dự Phụng
Vụ của Công Giáo, vẫn chưa thỏa mãn, nên tìm đến nhà thờ Tin Lành, thì có nên
không? Tưởng rằng ai đã nắm vững Giáo Lý của Công Giáo thì có thể đến nhà thờ
Tin Lành nghe thêm được. Nhưng nếu người
Công Giáo nào còn non yếu về Giáo Lý, thì chớ nên tới đó, vì hai lý do :
a-
Về mặt tâm lý :
Anh em Tin Lành chủ trương mỗi người tự đọc Thánh Kinh và tự hiểu. Ai
hiểu thế nào, thì Chúa dạy như vậy! Nếu thế ở bên Hoa Kỳ có trên 1.000 nhóm
hiểu Thánh Kinh khác nhau, mỗi Nhóm tự lập ra Hội Thánh riêng, có Nhà Thờ riêng
và Nhóm nào cũng cho Hội Thánh của mình mới hiểu đúng Lời Chúa. Do đó, có một
số người quá khích kết án Nhóm khác là tà đạo. Bởi thế dù Tin Lành ở Mỹ nhiều
hơn mọi quốc gia khác, nhưng họ không mạnh vì thiếu hiệp thông. Thế thì tôi
biết chọn nhà thờ Tin Lành nào giảng đúng ý Chúa ? Vả lại nếu có hai điều đúng
mà thiếu hiệp thông, đã trở thành điều ác ! Ví dụ : vợ nói với chồng : Bán nhà ở thành phố về quê
mua đất rộng rãi, làm nhà cho các con ở thoáng mát, con cái lại không vướng tật
xấu ở chốn đô thị, dễ dạy và đỡ hư hơn. Vợ nói đúng. Nhưng chồng lại nói : Về
quê, việc học của con cái không thuận lợi, tôi về đó không kiếm được việc làm
theo khả năng, làm gì ra tiền để nuôi gia đình, đang khi tôi có một công việc
rất tốt ở thành phố ! Chồng nói đúng. Nếu chồng cứ làm theo ý của mình, và vợ
cũng khư khư làm theo điều đã quyết định, thì chắc chắn gia đình sẽ tan vỡ! Đấy
mới chỉ có hai điều đúng mà thiếu hiệp thông, đã trở thành điều ác ! Huống hồ
cả trên 1.000 Hội Thánh Tin Lành không hiệp thông, thì sự ác sẽ gia tăng thế
nào ?! Điều này khác hẳn với Giáo Hội Công Giáo, mọi Nhà Thờ Công Giáo trên
khắp thế giới các chủ chăn đều cùng một Đức Tin, giải thích Lời Chúa cho dân.
b-
Về mặt tín lý :
Anh em Tin Lành chỉ dựa vào Thánh Kinh để cắt
nghĩa. Trong Hội Thánh Công giáo, ai muốn cắt nghĩa Lời Chúa, phải dựa giáo
huấn của Công Đồng Vat. II trong Sắc Lệnh về Nhiệm Vụ Mục Vụ của các Giám Mục số
14 dạy : Bài giáo lý phải dựa trên năm nguồn sau :
1* Thánh Truyền : Có trước văn tự, văn tự là con đẻ, là một
phần của Thánh Truyền. Vì Lời Chúa trong Tân Ước mãi tới khoảng năm 60 mới có ông
Marcô viết đầu tiên, ông chỉ tóm tắt ghi lại một phần nội dung chính từ các bài
giảng của thánh Phêrô. Ta lại biết lời giảng thì sinh động và phong phú hơn bài
viết, văn bản chỉ tóm tắt lời giảng,và Chúa cũng không bảo các môn đệ viết Lời
Chúa trao cho người khác, mà Ngài chỉ ra lệnh : “Chúng con hãy đi giảng dạy cho muôn dân…” (x Mt 28,19-20).
2* Thánh Kinh : Đức Giêsu không để lại
cho ai một chữ nào, mà Ngài chỉ dùng tám chứng nhân : Matthêu, Marcô, Luca,
Gioan, Phaolô, Giacôbê, Phêrô, Giuđa, để viết bộ Tân Ước. Cả đến sổ bộ Kinh
Thánh chúng ta đang có : Cựu Ước gồm 46 tác phẩm ; Tân Ước có 27 tác phẩm. Bộ
Kinh Thánh này đã được Hội Thánh định tín cho chúng ta : Toàn bộ Kinh Thánh Cựu
và Tân Ước gồm có 73 cuốn. Do đó cuốn nào ngoài sổ bộ Thánh Kinh Công Giáo, dù đó
là tác giả Luca, Phêrô, Giacôbê … thì sách ấy chỉ được xếp vào loại Ngụy kinh.
Mặt khác, khi ta đọc Thánh Kinh, muốn hiểu đúng ý Chúa, ta phải dựa vào
nguyên tắc quan trọng này : “Giá trị của
Cựu Ước được thể hiện trong Tân Ước ; giá trị của Tân Ước đã tiềm ẩn trong Cựu
Ước.” (Hiến Chế Mạc Khải số 16). Nói cách khác, Cựu Ước là nụ,Tân Ước là
bông, cánh chung mới có trái tốt! Bởi đó,những gì ở Cựu Ước không được thể hiện
nơi giáo huấn của Đức Giêsu hay trong Giáo Lý của Hội Thánh, thì đó chỉ là yếu
tố loài người, chứ không phải là ý Chúa.
Giáo lý Hội Thánh dạy ta biết một đoạn văn Thánh Kinh có thể được tìm
thấy bốn ý nghĩa :
§ Nghĩa văn tự dạy về biến cố.
§ Nghĩa ẩn dụ dạy điều phải tin.
§ Nghĩa luân lý dạy điều phải.
§ Nghĩa dẫn đường dạy điều phải vươn tới.
(theo GLHT số 115-119)
3* Giáo huấn của Hội Thánh : như Công Đồng Giêrusalem,Công Đồng Êphêsô,
Công Đồng Trentô, Công Đồng Vat. II … và sách Giáo Lý Roma
4* Các sách Phụng Vụ : Như sách Lễ Roma, sách Kinh Phụng Vụ, sách
Các Phép .
5* Giáo Luật : Những hướng dẫn về Giáo Lý, những kỷ luật mọi sinh
hoạt mục vụ của Hội Thánh.
Vậy mỗi khi ta dự Thánh Lễ, dù
mắt xác thịt không nhìn thấy Chúa Giêsu,nhưng với mắt đức tin ta phải xác tín
rằng : Chúa Giêsu trực tiếp nói với ta (x Dt 1,1), miễn là người giảng phải dựa
vào các bản văn Thánh Kinh đã được Hội Thánh chọn trong mỗi Thánh Lễ, mà trình
bày các mầu nhiệm đức tin và các quy tắc cho đời sống Kitô hữu (x Hiến Chế
Phụng Vụ số 24 và 52).
Khi ta đến dự Phụng Vụ Thánh Thể, không phải ta chỉ được nghe Lời Chúa
mà thôi, mà còn được ăn Chúa Giêsu Phục Sinh (rước Lễ) để trở nên cùng một nguồn
gốc, một xương thịt, cùng một sự sống với Chúa Giêsu (x Dt 2,11.14 ; Ga 6,57),
đó là phúc lớn nhất hơn xưa các tổ phụ Do Thái mong ước mà không được, đúng như
lời Đức Giêsu đã nói với các môn đệ :
"Phúc thay mắt nào được thấy điều anh em thấy! Quả vậy, Thầy
bảo cho anh em biết: nhiều ngôn sứ và nhiều vua chúa đã muốn thấy điều anh em
đang thấy, mà không được thấy,muốn nghe điều anh em đang nghe, mà không được
nghe." (Lc 10,23-24: Tin Mừng). Niềm vui cứu độ này làm bật miệng
chúng ta hô lên: “Kìa Chúa chúng ta ngự
đến uy quyền, sẽ chiếu tỏa ánh quang cho tôi tớ Người rạng ngời đôi mắt”
(Tung Hô Tin Mừng).
II. LỜI CHÚA GIÚP TA SỐNG HÒA HỢP VỚI CÁC “DÃ THÚ”.
Ngôn sứ Isaia đã nói về ngày Thiên Chúa thực hiện lời hứa cứu độ loài
người : “Bấy giờ sói sẽ ở với chiên con,
beo nằm bên dê nhỏ. Bò tơ và sư tử non được nuôi chung với nhau, một cậu bé sẽ
chăn dắt chúng. Bò cái kết thân cùng gấu cái,con của chúng nằm chung một chỗ,
sư tử cũng ăn rơm như bò. Bé thơ còn đang bú giỡn chơi bên hang rắn lục, trẻ
thơ vừa cai sữa thọc tay vào ổ rắn hổ mang. Sẽ không còn ai tác hại và tàn phá trên
khắp núi thánh của Ta, vì sự hiểu biết Đức Chúa
sẽ tràn ngập đất này, cũng như nước lấp đầy lòng biển” (Is 11, 6-9 :
Bài đọc).
Mà thực, chỉ những ai sống trong Hội Thánh mà cầu nguyện với Chúa Giêsu,
thì chẳng những không sợ “chó sói”, “rắn lục”, hay “rắn hổ mang” mà còn biến
“chúng” thành Tông Đồ xuất sắc cho Chúa Kitô. Cụ thể, Phó tế Stêphanô bị “sói
Saulo” ôm áo cho những “con rắn lục” ném đá ông cho đến chết. Như thế Phó tế
Stêphanô đang sống giữa “dã thú”, nhưng nhờ lời cầu nguyện của Stêphanô cho
“sói Saulo”, kết quả “sói Saulô” trở thành Tông Đồ Phaolô xuất sắc của muôn dân
(x Cv 7,54t – Cv 9).
Nhưng chỉ khi nào chúng ta được về Thiên Đàng với Chúa, lúc ấy mới thấy
được hết giá trị Lời Chúa giúp cho ta sống giữa “dã thú” mà chúng không làm hại.
Còn bây giờ Chúa vẫn cho phép “dã thú” vây ta, nên ta còn phải chịu đựng, tha
thứ, cầu nguyện cho những “dã thú” đang gầm gừ muốn cắn xé ta, để “triều đại Người đua nở hoa công lý, và thái
bình thịnh trị đến muôn đời” (Tv 72/71,7 : Đáp ca). Và có thể nói với mọi
người : “Kìa Chúa chúng ta ngự đến uy
quyền sẽ chiếu tỏa ánh quang cho tôi tới Người rạng ngời đôi mắt” (Tung Hô
Tin Mừng).
Nhờ giáo huấn qua các Bài đọc hôm nay, ta xác tín rằng : Mỗi khi đi dự Lễ,
ta được nhiều ân phúc hơn lòng mong ước, thế nhưng bản tính xác thịt con người
mấy ai ham thích ?
Có lần cuối
Thánh Lễ, tôi nói với thiếu nhi :
- Sáng mai cha
dẫn chúng con ra tiệm đãi mỗi em một tô phở.
Tất cả các em
đều nhảy mừng :
- Chúng con cám
ơn cha.
Sau đó, tôi lại
nói với các em :
- Sau khi ăn
phở xong, cha dẫn chúng con đi tắm biển Nha Trang.
Thế là mọi em
nhảy lên vỗ tay :
- Hoan hô, hoan
hô.
Cuối cùng, tôi
nói :
- Sau chuyến đi
chơi về, cha sẽ có Thánh Lễ dành riêng cho thiếu nhi mỗi tuần.
Nghe thế mặt mọi
em sụ xuống, buông tiếng thở dài !
THUỘC
LÒNG
Khi còn trung thành với Lời
Chúa, môi trường ta sống là vườn Địa Đàng ; khi ta bất trung với Lời Chúa, vườn
Địa Đàng trở thành Địa Ngục, vì “gai góc” mọc lên cho ta (x St 2-3).
http://phaolomoi.net
Lm
GIUSE ĐINH QUANG THỊNH